2017/02/05

XỬ LÝ CHỦ NHÂN FACEBOOKER TRƯƠNG MINH TÂM LÀ HỢP LÝ!


Chủ nhân facebooker bà Trương Minh Tâm, lợi dụng trang facebook cá nhân của mình để chia sẻ hình ảnh do Lisa Pham đăng tải nhằm phát tán thông tin tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ hình ảnh cá nhân bị kiểm tra xử lý nhưng vẫn không phục và một mực "làm càn" để kêu oan.

Qua nghiệp vụ theo dõi, điều tra của Công an tỉnh Long An, phát hiện chủ facebooker tại địa chỉ: https://www.facebook.com/tam.truongminh.3766 (một trang facebook công khai không phải trang kín) được xác định là của bà Trương Minh Tâm ngụ tại thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An chuyên chia sẻ và cho người khác đăng tải các thông tin tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu chế độ, kích động người dân tham gia biểu tình gây rối,... của hàng loạt các nhân vật như: Lisa Pham, Vũ Quang Thuận, Nguyễn Thị Ngọc Thu,...  Với những sai phạm này, cơ quan công an Thị xã Kiến Tường đã mời bà Trương Minh Tâm lên làm việc nhằm nhắc nhở việc chia sẻ những thông tin sai trái, xuyên tạc và nhắc nhở việc quản lý trang facebook cá nhân của mình theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bà Tâm đã không hợp tác còn cố tình vu khống cơ quan công an thị xã Kiến Tường bắt giữ người trái pháp luật,...

Cũng vào ngày 21/12/2106 chủ nhân facebook Trương Minh Tâm chia sẻ đoạn video của Vũ Quang Thuận tuyên truyền nói xấu, xuyên tạc (ảnh chụp màn hình facebook tại địa chỉ trên)


Theo đó, Công an Thị xã Kiến tường đã báo cáo lên Ủy ban Nhân dân tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân tỉnh Long An đã ra quyết định số 170 thành lập Đoàn kiểm tra do Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Long An tiến hành kiểm tra trang facebook cá nhân (tại địa chỉ trên) của bà Trương Minh Tâm.

Theo kết luận điều tra do Đoàn kiểm tra Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Long An cho thấy hành vi sai phạm trong việc chia sẻ thông tin và quản lý trang facebook của mình như sau: "Vào lúc 9giờ 09 phút ngày 21/12/2016 bà Trương Minh Tâm đã chia sẻ hình ảnh tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu của Lisa Phạm" và "cho phép rất nhiều các nhân vật đăng tải bài viết, video, hình ảnh phát tán thông tin xấu độc, sai trái, xuyên tạc,...".  Với các hành vi trên, Đoàn kiểm tra kết luận bà Trương Minh Tâm vi phạm vào điểm d khoản 1 điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng "Đưa thông tin xuyên  tạc, vu khống xúc phạm uy tín của tổ chức, danh sự và nhân phẩm của cá nhân"; vi phạm khoản 5 điều 21 Nghị định số 72: "Tổ chức, cá nhân phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về các thông tin mà mình lưu trữ, truyền đưa, cung cấp hoặc phát tán trên mạng." và vi phạm vào khoản 4 điều 26 Nghị định số 72: "Chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội, phát tán thông tin qua đường liên kết trực tiếp do mình thiết lập." Với hai hành vi phạm vi trên, Đoàn kiểm tra kết luận và kiến nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Long An xử phạt vi phạm hành chính đối với chủ facebooker bà Trương Minh Tâm theo quy định tại Nghị định số 72.

Kết luận của Đoàn kiểm tra Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Long An

Như vậy, chủ nhân facebook Trương Minh Tâm vi phạm hai lỗi do hai hành vi độc lập:

Thứ nhất, hành vi chia sẻ bài viết xuyên tạc, nói xấu gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự:

Theo quan sát của chúng tôi, chủ nhân facebook tại địa chỉ https://www.facebook.com/tam.truongminh.3766 tại thời điểm kiểm tra mang tên Trương Minh Tâm nay đổi tên thành "Đại Phát" không chỉ chia sẻ hình ảnh video clip do Lisa Pham (hiện đã xóa theo yêu cầu của kết luận của đoàn kiểm tra) mà còn chia sẻ cả video clip của Vũ Quang Thuận với những lời tuyên truyền, kích động, thóa mạ chế độ, Nhà nước, chính quyền và cá nhân (ảnh chụp từ màn hình facebook của Đại Phát trên). Với hành vi này, Đoàn kiểm tra kết luận bà Trương Minh Tâm vi phạm khoản 1 Điều 5 Nghị định 72 là hoàn toàn hợp lý. Nhưng bà Tâm và con trai bà cố tình "né" không nhắc đến hành vi "chia sẻ" của mình trong những bài viết đưa lên mạng để vu cáo Công an thị xã Kiến Tường và Ủy ban nhân dân tỉnh Long An. Phải chăng, bà không "chia sẻ" thì làm sao nó tự có trên facebook của bà được ? và việc bà chia sẻ cái gì, nội dung gì bà cũng không cần biết ? Nếu bà không cố tình thì làm sao lại có việc chia sẻ ? hay bà cũng định "cãi" cho rằng mật khẩu truy cập và quản trị trang facebook của bà là "tự do" nên ai thích vào chia sẻ cái gì thì chia sẻ ?

Thứ hai, vi phạm vào việc quản lý trang facebook cá nhân.

Việc cá nhân thực hiện đưa  thông tin lên mạng xã hội đều có tài khoản cá nhân và phải tự chịu trách nhiệm về tài khoản và thông tin trên trang thông tin cá nhân. Yếu tố "kiểm soát" là trách nhiệm bắt buộc của chủ tài khoản thực hiện hành vi thiết lập, đưa tin lên mạng xã hội. Nhưng, bà cho rằng "không hiểu kỹ thuật", "không hiểu nội dung",... thì chỉ là "cãi chày". Bởi, nếu bà không biết kỹ thuật sao thiết lập được trang facebook cá nhân, sao biết chia sẻ thông tin, biết đăng tải hình ảnh, bài viết,... Bà không hiểu nội dung thì phải giám định lại xem bà có mất năng lực hành vi dân sự, hành chính, hình sự hay không mới có thể kết luận được bà có hiểu nội dung do mình chia sẻ hoặc để cho người khác chia sẻ hay không. Nếu bà bị mất năng lực hành vi (bị tâm thần) thì mới có thể chấp nhận là bà không hiểu về nội dung bài viết, hình ảnh (clip) do bà chia sẻ hoặc cho phép người khác chia sẻ.

Về nguyên tắc của pháp luật, công dân phải biết pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của mình. Theo chúng tôi, đây chỉ là lần đầu nên mới chỉ xử phạt vi phạm hành chính, còn nếu bà Trương Minh Tâm vẫn tiếp tục duy trì trang facebook này để chia sẻ hoặc cho người khác vào chia sẻ thì chắc chắn trách nhiệm pháp lý không phải là hành chính nữa mà là trách nhiệm hình sự theo Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Thông qua vụ việc này, cảnh báo cho các cá nhân, tổ chức sử dụng mạng xã hội nói chung, facebook nói riêng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình theo quy định của pháp luật.

VT (chiaskienthucnet)
Chúng tôi trích dẫn các điều luật quy định tại Nghị định số 72 và Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi 2009 có liên quan đến vụ việc này:

Khoản 1 điều 5 Nghị định số 72:
1. Lợi dụng việc cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích:
a) Chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; tuyên truyền chiến tranh, khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo;
b) Tuyên truyền, kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc;
c) Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định;
d) Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân;
đ) Quảng cáo, tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ bị cấm; truyền bá tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm bị cấm;
e) Giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2. Cản trở trái pháp luật việc cung cấp và truy cập thông tin hợp pháp, việc cung cấp và sử dụng các dịch vụ hợp pháp trên Internet của tổ chức, cá nhân.
3. Cản trở trái pháp luật hoạt động của hệ thống máy chủ tên miền quốc gia Việt Nam ".vn", hoạt động hợp pháp của hệ thống thiết bị cung cấp dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.
4. Sử dụng trái phép mật khẩu, khóa mật mã của tổ chức, cá nhân; thông tin riêng, thông tin cá nhân và tài nguyên Internet.
Điều 21 Nghị định số 72
Điều 21. Nguyên tắc quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng
1. Việc quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng dưới hình thức báo điện tử, xuất bản điện tử và quảng cáo trên mạng phải tuân theo các quy định của pháp luật về báo chí, xuất bản và quảng cáo.
2. Việc quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng dưới hình thức mạng xã hội, trang thông tin điện tử tổng hợp phải tuân theo quy định tại Mục 2 Chương III và các quy định có liên quan tại Nghị định này.
3. Việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ nội dung thông tin trên mạng viễn thông di động phải tuân theo quy định tại Mục 3 Chương III và các quy định có liên quan tại Nghị định này.
4. Việc quản lý, cung cấp, sử dụng nội dung thông tin trên trang thông tin điện tử ứng dụng chuyên ngành phải tuân theo quy định của pháp luật chuyên ngành và các quy định có liên quan của Nghị định này.
5. Tổ chức, cá nhân phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về các thông tin mà mình lưu trữ, truyền đưa, cung cấp hoặc phát tán trên mạng.
6. Thông tin riêng của tổ chức, cá nhân được bảo đảm bí mật theo quy định của pháp luật. Việc kiểm soát thông tin riêng trên mạng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật.
7. Tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng không được tiết lộ thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ trừ các trường hợp sau đây:
a) Người sử dụng đồng ý cung cấp thông tin;
b) Các tổ chức, doanh nghiệp có thỏa thuận với nhau bằng văn bản về việc cung cấp thông tin cá nhân để phục vụ cho việc tính cước, lập hóa đơn, chứng từ và ngăn chặn hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng;
c) Khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
8. Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin trên mạng có trách nhiệm bảo vệ bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân khi lưu trữ, truyền đưa trên mạng thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước có trách nhiệm mã hóa thông tin theo quy định của pháp luật.
Điều 26 Nghị định số 72:
Điều 26. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ mạng xã hội
Ngoài quyền và nghĩa vụ của người sử dụng Internet quy định tại Điều 10 Nghị định này, người sử dụng dịch vụ mạng xã hội còn có quyền và nghĩa vụ sau đây:
1. Được sử dụng dịch vụ của mạng xã hội trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật.
2. Được bảo vệ bí mật thông tin riêng và thông tin cá nhân theo quy định của pháp luật.
3. Tuân thủ quy chế quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
4. Chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội, phát tán thông tin qua đường liên kết trực tiếp do mình thiết lập.
Điều 226-Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009:
“Điều 226. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet những thông tin trái với quy định của pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 88 và Điều 253 của Bộ luật này;
b) Mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa những thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó;
c) Hành vi khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet;
c) Thu lợi bất chính từ một trăm triệu đồng trở lên;
d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
VT (trích dẫn các điều luật)

No comments: