Tác giả: Nam Nguyễn
Kính Chiếu Yêu: Thế
giới phát triển, thay đổi, mọi hình thức nhà nước đều tìm kiếm con
đường thích ứng. Đọc cái này để thấy những kiến nghị trong thư ngõ của
các "nhơn sỹ" là thứ rác rưởi.
Nguồn: Dani Rodrik, “From Welfare State to Innovation State”, Project Syndicate, 14/01/2015.
Biên dịch: Nguyễn Vũ Hoàng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Một
viễn cảnh ảm đạm đang ám ảnh nền kinh tế thế giới – viễn cảnh công nghệ
tước đi công ăn việc làm. Cách giải quyết những thách thức này định
hình vận mệnh của các nền kinh tế thị trường trên thế giới và các chính
thể dân chủ theo đúng như cách thức mà phản ứng của Châu Âu trước sự gia
tăng của phong trào xã hội chủ nghĩa vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ
20 đã định hình tiến trình lịch sử sau đó.
Khi
tầng lớp lao động công nghiệp mới bắt đầu có tổ chức, các chính phủ đã
ngăn ngừa nguy cơ nổ ra cách mạng từ dưới lên, điều mà Karl Marx tiên
đoán, bằng việc mở rộng các quyền xã hội và chính trị, điều tiết các thị
trường, và xây dựng nên các nhà nước phúc lợi nhằm cung cấp các khoản
trợ cấp quy mô lớn và bảo hiểm xã hội, đồng thời giảm thiểu tình trạng
thất thường của nền kinh tế vĩ mô. Thực tế là họ đã tái cơ cấu hệ thống
kinh tế tư bản để làm cho nền kinh tế mang lại lợi ích cho mọi thành
phần và trao cho những người công nhân một phần lợi ích trong hệ thống.
Các
cuộc cách mạng công nghệ ngày nay đòi hỏi một sự tái tạo toàn diện có
tính chất tương tự. Những ích lợi tiềm tàng của các phát kiến và những
ứng dụng mới trong khoa học người máy, công nghệ sinh học, công nghệ số
và những lĩnh vực khác đều đang ở xung quanh chúng ta và có thể dễ dàng
thấy được. Thực chất, nhiều người tin rằng nền kinh tế thế giới có thể
đang ở đỉnh điểm của một đợt bùng nổ khác về các công nghệ mới.
Nhưng
vấn đề là phần lớn những công nghệ mới này lại tiết giảm sức lao động
của con người. Chúng đưa đến việc phải thay thế những người công nhân có
tay nghề thấp và trung bình bằng máy móc được vận hành bởi số lượng nhỏ
hơn rất nhiều các công nhân có tay nghề cao.
Tuy
nhiên phải công nhận một điều rằng một số công việc kỹ năng thấp khó có
thể được tự động hóa dễ dàng. Lấy công việc của những người lao công
làm một ví dụ, nó khó có thể được thay thế bởi người máy, ít nhất là cho
đến bây giờ. Nhưng rất ít công việc có thể được bảo vệ trước những tiến
bộ khoa học công nghệ. Giả sử như trong trường hợp này, nếu lượng rác
do con người tạo ra giảm xuống vì nơi làm việc được số hóa thì nhu cầu
về người lao công cũng sẽ giảm xuống.
Trong
một thế giới mà ở đó người máy và máy móc làm công việc thay cho con
người thì không có nghĩa thế giới đó có tình trạng thất nghiệp cao.
Nhưng đó chắc chắn là một thế giới mà ở đó phần lớn nhất của năng suất
lao động gia tăng được đổ dồn về túi của những ông chủ sở hữu các công
nghệ mới và các máy móc trang bị những công nghệ đó. Phần lớn lực lượng
lao động sẽ bị thất nghiệp hoặc phải nhận lương thấp.
Thực
sự, điều tương tự đã từng xảy ra ở những nước phát triển ít nhất trong
khoảng bốn thập niên qua. Các công nghệ có hàm lượng vốn đầu tư và kỹ
thuật cao đang là những thủ phạm hàng đầu đằng sau sự gia tăng bất bình
đẳng từ cuối những năm 1970. Nhiều chỉ dấu cho thấy xu hướng này chắc
chắn sẽ tiếp tục, tạo ra những cấp độ bất bình đẳng mới chưa từng có
trong lịch sử và nguy cơ lan rộng của xung đột chính trị và xã hội.
Nhưng
xu hướng này không nhất thiết tới mức độ nguy hiểm đó. Một lần nữa,
bằng những suy nghĩ sáng tạo và các thiết chế thể chế, chúng ta có thể
cứu hệ thống kinh tế tư bản khỏi các nguy cơ do chính nó tạo ra.
Điều
cốt yếu là thừa nhận rằng các công nghệ mới gây mất cân bằng đang đồng
thời tạo ra các nguồn lợi lớn cho xã hội và làm cho một số người khác bị
thiệt hại. Những lợi ích giành được hay những mất mát xảy ra có thể
được tái cơ cấu lại theo cách thức có lợi cho tất cả mọi người. Cũng
giống như tái cơ cấu lại hệ thống kinh tế tư bản trước đây được nhắc tới
ở trên, nhà nước cần phải đóng vai trò lớn hơn.
Hãy
xem xét cách các công nghệ mới được phát triển ra sao. Mỗi một nhà sáng
tạo tiềm tàng có những thuận lợi to lớn nhưng đồng thời đối mặt với
những rủi ro cao. Nếu sự đổi mới thành công thì những người tiên phong
đó sẽ thu được lợi ích lớn, và xã hội nói chung cũng vậy. Nhưng nếu thất
bại, nhà sáng tạo đó sẽ gặp khó khăn. Trong tất cả những ý tưởng mới
được theo đuổi thì chỉ có rất ít ý tưởng đi đến thành công thương mại
cuối cùng.
Những
rủi rõ là đặc biệt cao tại thời điểm sơ khởi của giai đoạn cải tiến
mới. Việc đạt được mức độ đổi mới đáng mong muốn cho toàn xã hội khi đó
sẽ đòi hỏi hoặc là người khởi nghiệp đó phải thật táo bạo – sẵn sàng
chấp nhận mạo hiểm – hoặc phải có đủ nguồn cung vốn cho đầu tư mạo hiểm.
Các
thị trường tài chính tại những nền kinh tế phát triển cung cấp vốn đầu
tư mạo hiểm thông qua một tập hợp các dàn xếp khác nhau – các quỹ đầu tư
mạo hiểm, chào bán cổ phiếu ra công chúng, quỹ đầu tư tư nhân, vv…
Nhưng chẳng có lý do gì để ngăn cản nhà nước đóng vai trò đầu tư này,
thậm chí là ở quy mô lớn hơn, qua đó cho phép không chỉ nhiều cải tiến
công nghệ hơn xảy ra mà còn chuyển những lợi ích đó trực tiếp tới xã hội
nói chung.
Như
Mariana Mazzucato đã chỉ ra, nhà nước đã đóng một vai trò quan trọng
trong đầu tư công nghệ mới. Mạng Internet và nhiều các công nghệ then
chốt được sử dụng trong điện thoại iPhone chính là tác động lan tỏa từ
các chương trình hỗ trợ nghiên cứu và phát triển của chính phủ và các dự
án của Bộ Quốc phòng Mỹ. Nhưng điểm đặc biệt là chính phủ Mỹ lại không
đòi hỏi lợi ích gì từ việc thương mại hóa các công nghệ thành công đó mà
để những lợi ích đó lại cho những nhà đầu tư tư nhân.
Hãy
hình dung rằng một chính phủ đã tạo ra một loạt các quỹ đầu tư công mạo
hiểm được quản lý chuyên nghiệp nhằm gây vốn đầu tư cần thiết thông qua
phát hành trái phiếu ra các thị trường tài chính, sau đó nắm giữ cổ
phần trong một loạt các công nghệ mới. Những quỹ này sẽ hoạt động theo
quy luật thị trường và công bố kiểm toán định kỳ cho các cơ quan quản lý
của chính phủ (đặc biệt là khi tỷ lệ hoàn vốn tụt xuống dưới một mức
nhất định), còn ngoài ra quỹ có thể hoạt động một cách tự chủ.
Thiết
lập những thể chế đúng đắn như vậy cho đầu tư công mạo hiểm sẽ là rất
khó khăn. Nhưng các ngân hàng trung ương là một mô hình mà theo đó những
quỹ này có thể hoạt động độc lập khỏi áp lực chính trị thường nhật. Xã
hội, thông qua đại diện của mình là chính phủ, khi đó sẽ đóng vai trò là
một đồng chủ sở hữu của các thế hệ công nghệ và máy móc mới.
Phần
lợi ích từ quá trình thương mại hóa các công nghệ mới mà các quỹ đầu tư
công mạo hiểm chia sẻ sẽ được chuyển trở lại cho những công dân của
nước đó dưới hình thức một dạng cổ tức “canh tân xã hội” – và nguồn thu
nhập này sẽ bổ sung cho thu nhập mà công nhân nhận được từ thị trường
lao động. Nó cũng cho phép giảm giờ làm, và cuối cùng tiến dần đến giấc
mơ của Marx về một xã hội mà ở đó các tiến bộ kỹ thuật tạo điều kiện cho
từng cá nhân trong xã hội được tự do “đi săn vào buổi sáng, câu cá vào
buổi chiều, chăm sóc gia súc vào buổi tối và tranh luận sau bữa ăn tối.”
Nhà
nước phúc lợi là một sự đổi mới làm dân chủ hóa và qua đó ổn định hóa
hệ thống kinh tế tư bản trong thế kỷ 20. Thế kỷ 21 đòi hỏi một sự chuyển
đổi tương tự để hướng tới một “nhà nước đổi mới”. Điểm yếu của nhà nước
phúc lợi là nó đòi hỏi chính sách đánh thuế cao mà không kích thích sự
đầu tư bù đắp vào năng lực đổi mới. Một nhà nước đổi mới được thành lập
theo phác thảo ở trên sẽ điều hòa giữa lợi ích và các động cơ thúc đẩy
đầu tư.
Dani
Rodrik là Giáo sư ngành Kinh tế Chính trị Thế giới tại Trường Quản trị
Nhà nước John F. Kennedy thuộc ĐH Harvard. Ông là tác giả của các cuốn
sách One Economics, Many Recipes: Globalization, Institutions, and
Economic Growth (Princeton University Press, 2009) và, gần đây nhất, là
The Globalization Paradox: Democracy and the Future of the World Economy
(W. W. Norton & Company, 2012).
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/10/08/nha-nuoc-phuc-loi-thanh-nha-nuoc-doi-moi/#sthash.Nl5g7Rgl.dpuf
No comments:
Post a Comment