Nguyễn Hoài An lược dịch
Lịch
sử Hoa Kỳ cũng có những chương đen tối về nhân quyền, nơi chính phủ -vì
những lý do khác nhau (trong đó kể cả sự đồng thuận của công chúng), tự
cho mình được phép áp dụng một thứ pháp luật riêng đối với những người
họ nghi ngờ là can phạm. Thế nhưng, phần lớn lịch sử này đã bị lờ đi
hoặc quên lãng.
Will Potter - Phóng viên điều tra và thành viên của Ted
Ở
Hoa Kỳ, ngay hiện tại, nhiều nhà tù bí mật vẫn đang tồn tại và hoạt
động. Nhiều người Mỹ mà tôi tiếp xúc không tin nổi chuyện này, họ nghĩ
những vi phạm nhân quyền như vậy chỉ có thể xảy ra ở các quốc gia khác.
Với
khẩu hiệu đảm bảo an ninh quốc gia đang được đẩy mạnh hơn bao giờ hết
cùng với “Cuộc chiến chống khủng bố”, xu hướng này lại tiếp tục phát
triển trong bí mật. Bài viết này là một cái nhìn sơ lược về lịch sử đó
của nước Hoa Kỳ, từ những cơ sở giam giữ ra đời những năm 1940 đến những
nhà tù đang hoạt động ngày nay.
Tuy
vậy, trước hết tôi xin nói rõ về khái niệm “nhà tù bí mật”. Tôi không
có ý nói đến những nhà tù mà công chúng tuyệt đối không biết chút gì về
nó. Nói cho cùng, ngay cả những trại lao động cải tạo (gulag) khét tiếng
của Liên Xô cũng được nhân dân và giới truyền thông, cả trong và ngoài
nước biết đến. Nhà tù bí mật theo bài viết này, là những cơ sở hoạt động
theo tiêu chuẩn riêng, khác hẳn so với nhà tù truyền thống. Chúng phản
ánh một hệ thống pháp luật song song với hệ thống pháp luật đang có hiệu
lự chỉ dành riêng đối với các tù nhân; mà theo đó, bởi vì chủng tộc,
tôn giáo của mình hay niềm tin chính trị mà họ theo đuổi, những người
này bị cách ly khỏi thế giới bên ngoài, bị tước quyền được xét xử theo
chuẩn mực tố tụng, và bị đưa đi khuất khỏi tai mắt của người dân.
Trại quản chế người Nhật
Có
lẽ kiểu sử dụng hệ thống pháp luật song song khét tiếng nhất phải kể
đến là các khu quản chế 120.000 người Mỹ gốc Nhật trong suốt Chiến tranh
Thế giới II. Tất cả những người gốc Nhật trong độ tuổi trưởng thành đều
phải điền vào một bảng hỏi đánh giá “chất Hoa Kỳ” của họ, và hai câu
hỏi cuối cùng trong bảng hỏi đó đánh giá trực tiếp lòng trung thành của
họ đối với nhà nước Hoa Kỳ.
Trước
khi trại quản chế này được mở ra, chính phủ đã sử dụng “Bảng thống kê
tạm giữ” (Custodial Detention Index) để xác định và giám sát các nhà
hoạt động chính trị, trong số này có nhiều người Nhật. Sau vụ Trân Châu
Cảng bị ném bom, FBI đã tiến hành bắt giữ nhiều người và đưa họ đến các
trại quản chế.
Bức
ảnh về các khu nhà quản chế người Mỹ gốc Nhật trong chiến tranh thế
giới thứ hai được công bố vào ngày 21 tháng 6 năm 1943. Các lãnh đạo Hoa
Kỳ đã cố gắng loại bỏ tên gọi trại tập trung (concentration center) và
thay bằng tên gọi trại quản chế (internment center) vì lo ngại truyền
thông liên hệ với các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Ảnh:
history.howstuffworks
Alcatraz
Cũng
trong khoảng thời gian này, Alcatraz trở thành cái tên quen thuộc với
các hộ gia đình Mỹ. Địa điểm từng là khu đồn trú quân sự được mô tả là
chốn “tận cùng địa ngục” với chế độ quản chế hà khắc nhất Hoa Kỳ. Đây là
nơi giam giữ những nhân vật được cho là “những kẻ tồi tệ nhất trong
những kẻ tồi tệ nhất,” trong đó có những tay anh chị như Al Capone.
Tuy
nhiên, Alcatraz không chỉ có vậy. Đó còn là một điểm nhấn mới của mô
hình quản chế mang tính trừng phạt và bảo mật. Hòn đảo khuất hẳn mọi ánh
mắt nhòm ngó của công chúng, cả về địa lý lẫn về chính trị. Các tù nhân
kể lại những câu chuyện chi tiết về tình trạng bạo ngược tràn lan trong
nhà tù. Hình thức tra tấn khủng khiếp nhất, theo họ, là “quy định im
lặng” của Warden Johnston, theo quy định này các tù nhân sẽ bị cấm mọi
hình thức tiếp xúc. Và theo báo cáo, nhiều tù nhân đã phát điên khi bị
tra tấn kiểu này.
Trong
suy nghĩ của công chúng thời đó, Alcatraz là nơi giam giữ những tù nhân
hung bạo, không đáng được dư luận quan tâm. Tuy nhiên, Alcatraz cũng là
nơi giam giữ một số tù nhân chính trị gây tranh cãi nhất thời đó.
Chẳng
hạn, Morton Sobell, một người được cho là đồng phạm của Julius và Ethel
Rosenberg – những người bị thi hành án tử hình vì âm mưu gián điệp
chống lại Hoa Kỳ – đã bị giam tại đây. Một tù nhân nổi tiếng khác là
Rafael Cancel Miranda, một người rất có ảnh hưởng trong phong trào đòi
độc lập cho Puerto Rico. Giống như những tù nhân trong các Đơn vị Quản
lý Tiếp xúc (CMU) hiện đại mà tôi có cơ hội tới thăm, Cancel Miranda chỉ
được phép tiếp xúc với người thăm qua vách ngăn bằng kính và trao đổi
bằng tiếng Anh. Ông cũng không được phép gặp con cái của mình.
Năm
1963, USP Marion được mở ra như một nhà tù công nghệ cao thay thế cho
Alcatraz, và 500 tù nhân ở Alcatraz – trong đó có Miranda – đã được
chuyển tới đây. Năm 1968, các quan chức nhà tù bắt đầu tiến hành một
chương trình điều chỉnh hành vi có tên là Nỗ lực Kiểm soát và Cải tạo
(CARE – Control and Rehabilitation Effort). Với các tù nhân, CARE là một
loạt các cuộc tấn công nhằm vào tâm lý. Năm 1973, khi các tù nhân đình
công để phản đối chuyện một bạn tù bị đánh đập, các quan chức nhà tù đã
triển khai một chương trình thậm chí còn cực đoan hơn có tên là Kiểm
soát Đơn vị (Control Unit).
Suốt
nhiều năm, nhà tù Marion trở nên khét tiếng vì chương trình này. Khi
một tù nhân bị đẩy vào tình trạng kiểm soát đơn vị, anh ta sẽ bị nhốt
riêng trong các buồng kín suốt 22 giờ đồng hồ. Có nhiều câu chuyện về sự
tàn bạo rộng khắp trong nhà tù. Các tổ chức quốc tế cho rằng “Mô hình
Marion” tương đương với hình thức tra tấn tâm lý, tuy nhiên Cục Nhà giam
Hoa Kỳ lại tuyên bố đây chỉ là biện pháp cần thiết để đảm bảo an toàn.
Dù
vậy, giống như Alcatra, phương pháp kiểm soát đơn vị không chỉ giam giữ
tù nhân có khuynh hướng bạo lực. Năm 1990, Ralph Arron, một người từng
làm quản giáo tại nhà tù này tiết lộ, “Mục đích của mô hình Kiểm soát
Đơn vị ở Marion là kiểm soát những thái độ cách mạng trong hệ thống nhà
tù và xã hội nói chung.” Sau một vụ bạo động lan khắp nhà tù và sự kiện
hai quản giáo bị giết đầu những năm 1980, toàn bộ nhà tù Marion áp dụng
phương thức kiểm soát đơn vị. Sau này, các quan chức chính phủ đã kêu
gọi thành lập một nhà tù với những biện pháp thậm chí còn cực đoan hơn,
và nhà tù siêu an ninh ADX-Florence đã được xây dựng ở Colorado.
Lexington HSU
Trong
những năm 1980, một nhà tù với cấp độ an ninh tương tự đã được mở ra để
giam giữ tù nhân nữ. Đơn vị An ninh Bậc cao (HSU) trong nhà tù liên
bang dành cho các nữ phạm nhân ở Lexington, Kentucky đã được xây dựng để
giam giữ những tù nhân chính trị thuộc các tổ chức mà Cục Nhà giam Hoa
Kỳ cho là “có nỗ lực phá hoại hoặc lật đổ chính phủ Hoa Kỳ.” Trong những
nhân vật bị giam giữ ở đây có Susan Rosenberg, một nhà hoạt động cấp
tiến ủng hộ Đội quân Giải phóng người da màu và Thế giới ngầm Weather,
và Silvia Baraldini và Alejandrina Torres, những người ủng hộ các cuộc
đấu tranh giành độc lập ở Puerto Rico.
Lexington
HSU nằm dưới tầng ngầm, tách biệt hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài.
Các cuộc thăm viếng, tiếp xúc tù nhân bị giam ở khu vực này bị hạn chế
tối đa. Những nữ phạm nhân bị giam ở đây liên tục phải tiếp xúc với ánh
đèn huỳnh quang, gần như bị lục soát vũ khí trên người mỗi ngày và các
giác quan ngày càng trở nên xuống cấp. Mục đích của những điều kiện như
thế, theo báo cáo của Tiến sĩ Richard Korn cho Liên đoàn Tự do Dân sự
Hoa Kỳ (ACLU), là để “đẩy người tù xuống trạng thái quy thuận cần thiết
cho cuộc cải hóa tư tưởng.” Năm 1988 Lexington HSU bị đóng cửa sau những
ý kiến phản đối và chỉ trích của Tổ chức Ân xá Quốc tế, ACLU, Trung tâm
vì Quyền Hiến pháp và các tổ chức tôn giáo khác lên Tòa án Liên Bang.
Barrington
Parker, thẩm phán xét xử vụ này, cho biết các đơn vị nhà tù này đã vi
pháp khi tiến hành những biện pháp trừng phạt hà khắc những người bất
đồng chính kiến về chính trị. “Việc bắt giữ tù nhân chỉ dựa trên việc họ
đưa ra một tuyên bố và có một tư tưởng nhất định là kiểu phản ứng quá
khích của chính phủ mà Tối cao Pháp viện đã nhiều lần cảnh báo,” ông nói
khi đưa ra phán quyết.
Còn tiếp
Nguồn bài viết:
No comments:
Post a Comment