Toàn văn Báo cáo do Tổng Bí thư trình bày tại Đại hội XII của Đảng
VOV
giới thiệu toàn văn Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
trình bày tại phiên khai mạc Đại hội XII của Đảng sáng 21/1.
Báo
cáo do Tổng Bí thư trình bày tại Đại hội XII có tiêu đề:“Tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân
chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu
sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội,
Thưa các vị khách quý,
Thưa các đồng chí đại biểu Đại hội,
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng có nhiệm vụ kiểm điểm việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; nhìn lại 30 năm đổi mới; quyết định
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2021; kiểm điểm sự lãnh
đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ
Đảng khoá XI; bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá XII. Ban Chấp hành
Trung ương đã gửi các đồng chí đại biểu Đại hội dự thảo các văn kiện.
Các dự thảo Báo cáo chính trị và Báo cáo kinh tế -xã hội đã được thảo
luận, góp ý nghiêm túc tại đại hội đảng bộ các cấp và đã được công bố
rộng rãi để lấy ý kiến của đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể nhân dân, các đồng chí lão thành cách mạng, nhân sĩ, trí thức, lực
lượng vũ trang cùng đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước, đồng bào
ta ở nước ngoài. Các ý kiến đóng góp rất phong phú, quý báu, tâm huyết,
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao với Đảng, với nhân dân, với đất nước.
Ban Chấp hành Trung ương đã tiếp thu tối đa những ý kiến hợp lý, xác
đáng, bổ sung, hoàn thiện để các văn kiện trình Đại hội thật sự là kết
tinh ý chí, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; và giúp Ban Chấp
hành Trung ương khoá XII nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo sau Đại hội. Từ
diễn đàn trọng thể này, Đại hội chúng ta bày tỏ sự trân trọng, nhiệt
liệt hoan nghênh và chân thành cảm ơn sự đóng góp tâm huyết, quý báu của
đồng chí, đồng bào.
Các
Báo cáo trình Đại hội đã trình bày toàn diện, đầy đủ, cụ thể các vấn
đề. Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, tôi xin trình bày những
tư tưởng và nội dung cốt lõi trong các văn kiện trình Đại hội.
I. VỮNG BƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI
Năm
năm qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực
có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm; khủng
hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày
càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên
Biển Đông,... đã tác động bất lợi đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu
nhiệm kỳ, cùng với những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh
tế chưa được giải quyết, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý
và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống
nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề.
Nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng
thời, chúng ta phải dành nhiều nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh
và bảo vệ chủ quyền đất nước trước những động thái mới của tình hình khu
vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã
nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, đạt
được những thành quả quan trọng.
Nền
kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được
nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm
sau cao hơn năm trước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện bước đầu
đạt kết quả tích cực. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn
hoá, xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều
hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ổn định.
Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị
thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và
đạt kết quả quan trọng.
Tuy
nhiên, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã
hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại không đạt được. Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế chậm được
khắc phục. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng
xa còn nhiều khó khăn. Bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra vẫn còn tồn tại, có
mặt diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm.
Thưa các đồng chí,
Ba
mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách
mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp
cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nhìn
tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn,
phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc
phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu
thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc
kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp
tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.
Thời
kỳ mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt;
xây dựng văn hoá, con ngưòi làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc
phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự
báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những
vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn
phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta: quan hệ giữa đổi
mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ,...
Thưa các đồng chí,
Năm
năm tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức
tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ, thách thức. Hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.
Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế
tri thức tiếp tục được đẩy manh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có
khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm
phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến lược
ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến
lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ,
chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra
gay gắt.
Ở
trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy
đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn
nhiều so với giai đoạn trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng
lớn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng
ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hoà
bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí,...
Để
tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn,
thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng,
quyết tâm: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh,
bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong
khu vực và trên thế giới.
Trong
quá trình phấn đấu để đạt các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế, xã hội, môi
trường như được nêu trong Báo cáo kinh tế - xã hội, chúng ta cần: Tiếp
tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý. Tập trung hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành đầy đủ,
đồng bộ, hiệu quả theo quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước sử dụng
thể chế, luật pháp, các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân
phối và phân phối lại để phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến bộ
và công bằng xã hội. Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn
định kinh tế vĩ mô, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức canh tranh; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển
văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát
triển của Nhà nước; tạo môi trường thuận lợi cho sáng tạo, phát huy dân
chủ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Phát huy cao nhất các nguồn
lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
II. PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG, PHẤN ĐẤU SỚM ĐƯA NƯỚC TA CƠ BẢN TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI
Thưa các đồng chí,
Mục
tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại đã được xác định từ Đại hội VIII của Đảng và trên thực
tế, 20 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu
thực hiện mục tiêu này. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ
quan nên nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu trên không đạt được.
Trong 5 năm tới, phải phấn đấu quyết liệt hơn, phát triển kinh tế nhanh,
bền vững để sớm đạt được mục tiêu này. Đặc biệt cần nhận thức và thực
hiện hiệu quả những định hướng lớn sau đây:
Tiếp
tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện
thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây
là một chủ trương lớn, quan trọng, được nêu ra từ Đại hội XI của Đảng.
Trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình này theo hướng kết
hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát
triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên
cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công
nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy
lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế; giải quyết hài hoà giữa
mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc
phòng, an ninh; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. Động lực quan trọng nhất và cũng là
điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng
dụng khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo.
Tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các
ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào
các lĩnh vực quan trọng: cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công;
cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà
nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn
nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng
nông thôn mới. Đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đột phá
về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải
phóng mạnh mẽ sức sản xuất, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực.
Tập
trung xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với
tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát triển có
chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá
chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh.
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn
mới; xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng
công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh
thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu; có chính sách
phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất. Đẩy mạnh phát triển khu vực
dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực
sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế. Tập trung
phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và
công nghệ cao. Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực
kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Phát huy tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động
lực; có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất
là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và hải
đảo; xây dựng một số đặc khu kinh tế. Từng bước hình thành hệ thống đô
thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường. Đẩy
mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập
trung đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương
đối đồng bộ với một số công trình hiện đại.
Thống
nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp vối trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ
yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước
đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các
công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều
tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách
phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh
tế - xã hội.
Những
nhận thức trên đây cần được tiếp tục cụ thể hoá, thể chế hoá phù hợp
với từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực; tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học,
công nghệ.
Giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố
cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất,
năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang
bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học:
yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả.
Từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống
giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại
mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đổi
mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống
nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở
giáo dục, đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả
mọi nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm
2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Phát
triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, làm cho khoa học, công nghệ thực sự
là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường,
bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ
cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các
ngành, các cấp. Tiếp tục đổi mối mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ
chức, hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương
thức đầu tư, cơ chế tài chính để giải phóng năng lực sáng tạo, đưa nhanh
tiến bộ khoa học - công nghệ vào hoạt động thực tiễn. Tăng cường liên
kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; mở rộng
hình thức liên kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà
nông. Tăng cường hợp tác về khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ cao,
phải là hướng ưu tiên trong hội nhập quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020,
khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước
dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến
trên thế giới.
Xây dựng, phát triển văn hoá, con người
Các
cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt
của văn hoá, con người; phải thực hiện có kết quả mục tiêu xây dựng nền
văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -
thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học;
xây dựng văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Đúc
kết và xây dựng hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị chuẩn mực của con
người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc
tế. Làm cho giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi mặt hoạt
động, mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển bền vững. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tạo điều kiện để
xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về
trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khoẻ về thể chất; nâng cao trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật;
phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc. Trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao
nhân tố văn hoá, con người. Mọi hoạt động văn hoá, từ bảo tồn, phát huy
các di sản lịch sử, văn hoá; phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí,
xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số, văn hoá tôn
giáo, xây dựng thiết chế văn hoá,... đều phải phục vụ thiết thực sự
nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người.
Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
Nhận
thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và
quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội;
giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc; khắc phục từng bước
sự mất cân đối về phát triển giữa các lĩnh vực, các vùng, miền; bảo đảm
sự hài hoà về lợi ích, về quan hệ xã hội, quan tâm thích đáng đến các
tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở
vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu -
nghèo. Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã
hội. Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã
hội; giảm thiểu tai nạn giao thông.
Gắn
kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh
tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân
được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây
dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện
phát triển toàn diện. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công;
giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập của người lao động; bảo
đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; coi trọng chăm sóc sức
khoẻ nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ, chăm sóc
sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; thực hiện tiến bộ và bình đẳng giới; xây dựng
gia đình hạnh phúc. Huy động các nguồn lực phát triển sự nghiệp y tế;
đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.
Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu
Tài
nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải
được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ,
khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững, gắn với
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Chú trọng sử
dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, vật liệu mới.
Ngăn
chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do con
người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra. Hạn chế, tiến
tới khắc phục căn bản tình trạng huỷ hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô
thị. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo
vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng
gây ô nhiễm môi trường, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây
ô nhiễm môi trường.
Chủ
động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên
tai cho từng giai đoạn. Trước mắt tập trung xử lý hiệu quả tình trạng lũ
lụt, hạn hán, sạt lở bãi sông, bãi biển, xâm nhập mặn và triều
cường,... đang tác động trực tiếp đến đời sống, sản xuất của nhân dân.
III-
BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC; GIỮ VỮNG MÔI TRƯỜNG HOÀ BÌNH, ỔN ĐỊNH; NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Thưa các đồng chí,
Bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn gắn
bó chặt chẽ, mật thiết với nhau; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định
để phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân là nòng cốt.
Mục
tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính tri, tranh thủ tối đa
sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội.
Tăng
cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn,
phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội
phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh
truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an
ninh mạng.
Kết
hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc
phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng
xa, biên giới, biển, đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và
đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng
"thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân... Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại
hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị,
nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thực
hiện thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế. Bảo đảm lợi ích
tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng
hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế,... nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển
đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất
nước và góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nâng
cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp
tác đi vào chiều sâu. Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý; phù hợp với lợi ích
của đất nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất
là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với
phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập
vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa
phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia
các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia
các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hoà bình của
Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động
khác. Đẩy manh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, khoa học
- công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác.
IV-
PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA; XÂY
DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỂN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Thưa các đồng chí,
Đại
đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam,
là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh" làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác
biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh
thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp,
đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ
mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại
đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ
lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng
là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng
nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và
yêu cầu chính đáng của nhân dân; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể,
thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền
làm chủ. Chú trọng xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Chăm lo bồi dưỡng, phát huy vai
trò thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi. Thực hiện tốt
pháp luật, chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách đối với đồng bào
định cư ở nước ngoài. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để tập hợp, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt dân chủ, giám sát, phản biện xã
hội, tăng cường đồng thuận xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước,
hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp
tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham
gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết đinh liên quan
đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.
Thể
chế hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần
của Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế
hoá và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra".
Phát
huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm
công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán
những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những
hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân
dân.
Xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩaphải tiến hành
đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với
đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn
với đổi mới kinh tế, văn hoá, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức năng,
nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh việc hoàn thiện và
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Xác
định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là
cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà
nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi
quyền.
Tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc
quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức
Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là
cơ quan chấp hành của Quốc hội. Tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách
tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
lợi ích nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở bảo đảm tính thống
nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, xác
định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền
địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hoàn thiện mô hình
tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định.
V- XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG
Thưa các đồng chí,
Năm
năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã kiên trì,
nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng Đảng trên cả ba mặt
chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạt được những kết quả quan trọng.
Nhìn
chung, các cấp uỷ, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện bài bản, quyết liệt Nghị quyết
Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và đã
đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo chuyển biến tích cực
trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng
bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái trong Đảng. Quá trình kiểm
điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 và
việc khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm đã góp phần siết lại
kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, tạo được chuyển biến tích cực bước đầu
trong việc ngăn chặn trên một số mặt tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, khắc phục một số hạn chế,
khuyết điểm trong công tác cán bộ và trong thực hiện các nguyên tắc tổ
chức sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách. Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú
trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực
tiễn, đổi mới phong cách và lề lối làm việc; nghiêm khắc với mình hơn,
giữ gìn đạo đức, lối sống; bước đầu tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều
chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác và trong cuộc sống của
mình, của gia đình và người thân. Bước đầu kiềm chế, ngăn chặn tình
trạng tham nhũng, lãng phí. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt
nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra,
xét xử nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật, được cán bộ, đảng
viên và nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Nhiều chủ trương,
nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ
thể hoá bằng các quy chế, quy đinh, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ
hơn. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ được
đẩy manh hơn. Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã
có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân
dân.
Trong
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, một số việc chưa đạt mục tiêu Nghị
quyết đề ra. Trong tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né
tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số cán bộ, đảng viên chưa
tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước
những hạn chế, khuyết điểm trong công việc được giao. Trên một số vấn
đề, qua kiểm điểm của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ
sở vẫn chưa làm rõ thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở
đâu, ai chịu trách nhiệm. Việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các
quy định của Đảng và Nhà nước theo hướng đề cao hơn trách nhiệm và quyền
hạn của người đứng đầu trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân chưa
thực hiện được. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với
biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh
hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tình trạng suy
thoái về
tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn.
Đánh
giá chung, công tác xây dựng Đảng 5 năm qua đã đạt được những kết quả
quan trọng. Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng
và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, kiên định đường lối đổi mới; xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đạt được những kết quả đó là do Đảng ta luôn xác định
nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt; đa số cán bộ, đảng viên có quan
điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức, vai trò
tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; thu hút sự
tham gia của hệ thống chính trị và nhân dân vào việc chỉnh đốn, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tuy
nhiên, công tác xây dựng Đảng nói chung cũng bộc lộ nhiều hạn chế,
khuyết điểm thể hiện trên các mặt, các nội dung, các khâu công tác, nổi
bật là: việc dự báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước chưa kịp thời, đồng bộ, hiệu quả;
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp,
có nơi mất sức chiến đấu; công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng
viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên; chất lượng sinh hoạt
đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình, phê bình còn yếu; tổ chức bộ máy
của Đảng và hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hiệu quả
hoạt động chưa cao. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên đã làm giảm lòng
tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Trong
những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi
hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên
quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI. Các
cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở phải nghiêm túc, tự
giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu
kém, khuyết điểm.
Trước
hết, phải chú trọng xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp
với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí
tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong
bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Đổi
mới công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính
thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất cao
trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; đẩy manh tuyên truyền, học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng
cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mối tư duy lý luận; đẩy mạnh
công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ
khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tăng
cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,
cơ hội, thực dụng. Tập trung thực hiện mục tiêu: "Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức". Tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá”, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, bè phái, "lợi ích nhóm", nói không đi đôi với làm.
Tiếp
tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ
trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người
đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực,
ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương.
Kiện
toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức
cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Tập trung củng cố, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức
cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức, bảo đảm sự
lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự
tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân,... vững
vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cao
đẹp của Đảng.
Đổi
mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội
bộ. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Thể chế hoá, cụ thể hoá các nguyên
tắc về xây dựng Đảng. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy
chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và
chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về
việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng,
bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy
tuổi, chạy bằng cấp,... Đổi mới công tác bầu cử trong Đảng, phương thức
tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,... để lựa chọn những người thực sự có đức,
có tài giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng
lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện,
thu hút, trọng dụng nhân tài. Tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ, nhất là
cấp uỷ cơ sở trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Đổi
mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng. Xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết
điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý.
Tiếp
tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân. Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; giải quyết kịp thời, hiệu
quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại,
tố cáo của công dân. Phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành
phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường
xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các
cấp uỷ đảng, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, và toàn
bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí;
chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp
thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng,
tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc
chống tham nhũng, lãng phí.
Đổi
mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị,
đặc biệt là với Nhà nước. Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của
Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) ở
tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Coi trọng
xây dựng văn hoá trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ
thống chính trị. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của
các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, xây dựng phong
cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân,
bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.
VI- NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XII
Thưa các đồng chí,
Trong
nhiệm kỳ Đại hội XII, trong khi triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ
Nghị quyết của Đại hội trên các lĩnh vực, cần tập trung thực hiện một
số nhiệm vụ trọng tâm sau đây :
Một
là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ.
Hai
là, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu.
Ba
là, tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột
phá chiến lược; cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn
với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và
bảo đảm an toàn nợ công.
Bốn
là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các
quan hệ đối ngoại; thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện
mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc
tế.
Năm
là, thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân
dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những
vấn đề bức thiết; tăng cưòng quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh
xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã
hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sáu
là, phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội;
tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và
năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
Thưa các đồng chí,
Đại
hội lần thứ XII của Đảng là Đại hội đoàn kết - dân chủ - kỷ cương - đổi
mới, khẳng định quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Thực tiễn sinh
động, phong phú và những thành tựu to lớn cùng những bài học sâu sắc qua
30 năm đổi mới, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI là cơ sở vững
chắc để Đảng ta đưa ra những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, mở ra thời
kỳ phát triển mới, vẻ vang, tốt đẹp của đất nước, dân tộc. Sự đồng lòng,
nhất trí và tâm huyết, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là
nguồn sức mạnh vô tận. Chúng ta nhất định thành cộng trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Xin trân trọng cảm ơn!./.
No comments:
Post a Comment