Khu trục hạm USS Curtis của Hải quân Mỹ
Những
phát ngôn của Bắc Kinh trong vụ Hải quân Mỹ đưa khu trục hạm USS Curtis
(DDG 54) tiến vào và di chuyển bên trong vùng 12 hải lý của đảo Tri
Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa ngày 30/1/2016 theo thủ tục “đi qua vô
hại”, nhằm thực hiện chiến dịch tự do hàng hải, là một trong những minh
chứng rõ ràng nhất cho thấy lối hành xử “giang hồ” của Trung Quốc.
Người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh lớn tiếng tuyên bố:
"Tàu chiến nước ngoài tiến vào (cái gọi là) lãnh hải Trung Quốc, bắt
buộc phải có sự phê chuẩn của chính phủ Trung Quốc.
Tàu
chiến Mỹ đã vi phạm các quy định của pháp luật Trung Quốc, tự ý tiến
vào lãnh hải Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ áp dụng các biện pháp giám sát,
phản đối bằng loa phát thanh... theo quy định”.
Còn
Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân thì vênh vang
cho hay quân đội nước này đã cảnh báo và xua đuổi tàu khu trục của Mỹ
khi nó tiến vào vùng 12 hải lý quanh đảo Tri Tôn.
Khoan
hãy bàn về chuyện Trung Quốc có thực đã cảnh báo và xua đuổi khu trục
hạm USS Curtis của Mỹ như lời Bắc Kinh nói hay không, vì dù sao cũng
chưa thể kiểm chứng thông báo của Mỹ rằng, không có tàu chiến của quân
đội Trung Quốc trong khu vực khi tàu khu trục của Hải quân Mỹ tiến hành
tuần tra.
Tuy
nhiên, qua lời lẽ của Bắc Kinh, có thể thấy họ chẳng coi “quyền tự do
hàng hải” hay “quyền đi qua vô hại” trong lãnh hải được quy định trong
Điều 17, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 ra gì.
Phản
ứng của Bắc Kinh trong sự kiện USS Curtis cũng tương tự như cách họ đã
nói, đã làm trong vụ khu trục hạm USS Lassen của Hải quân Mỹ thực thi tự
do hàng hải trong phạm vi 12 hải lý của bãi Đá Su Bi, thuộc quần đảo
Trường Sa; hay như các vụ đe dọa các máy bay của Australia, Philippines
hồi năm ngoái ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Có
thể hình dung kiểu đáp trả của Trung Quốc chẳng khác gì kiểu một tên
giang hồ đang chiếm cứ một phương, tưởng bầu trời này, mặt đất này, mặt
biển này là của riêng hắn, hắn muốn làm gì thì làm, hắn cho ai qua mới
được qua, bỗng một ngày bị một kẻ từ nơi khác tới “thách thức” sự chiếm
đóng của mình, liền giãy nảy lên và hăm dọa đòi xử kẻ thách thức theo
“luật” của riêng hắn.
Trong
khi đó, bản thân Trung Quốc lại là kẻ chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển
từ tay người khác bằng vũ lực, bằng thủ đoạn. Và những sự thật này, cả
thế giới đều biết, cho dù Trung Quốc muốn phủ nhận, chối bỏ cũng không
được.
Biếm họa: Trung Quốc mưu đồ "quây" Biển Đông, biển Hoa Đông thành "ao nhà" của mình
Trung
Quốc vẫn khơi khơi nói họ có cái gọi là "chủ quyền" với 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, cho nên họ làm gì ở trên các đảo, rạn san hô hữu
quan ở 2 quần đảo này cũng là hoàn toàn chính đáng, từ việc nạo vét đất,
cát bồi đắp, xây đảo nhân tạo đến ngăn cản, hăm dọa tàu thuyền, máy
bay, bất kể dân sự, quân sự của các nước khác hoạt động trong những khu
vực này.
Tuy
nhiên, thực tế Trung Quốc đến nay vẫn không thể đưa ra bất cứ bằng
chứng lịch sử, cũng như tài liệu pháp lý nào được công nhận để chứng
minh cho cái gọi là “chủ quyền” đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam, nếu không muốn nói là Bắc Kinh còn đang “cứng họng”
trước những chứng cứ hoàn toàn chống lại luận điệu của họ.
Cơ
sở mà Bắc Kinh luôn trưng ra để yêu sách đòi chủ quyền với gần 2/3 diện
tích Biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
là bản đồ “đường 9 đoạn” (hay còn gọi là “đường lưỡi bò”). Mà tấm bản đồ
này thì từ giới học giả cho đến chính phủ các nước trên thế giới đều
cho rằng nó thiếu một cơ sở chắc chắn về khía cạnh luật pháp. Nguồn gốc
và ý nghĩa của “đường lưỡi bò” hoàn toàn mập mờ, không chính xác đến nỗi
bản thân các học giả Trung Quốc cho đến nay cũng không thống nhất được
một giải thích hợp lý nào.
Bên
cạnh đó, Trung Quốc cũng không đưa ra được bằng chứng nào có sức thuyết
phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn
này một cách liên tục, hòa bình từ thời xa xưa.
Lịch
sử thì còn xa xôi, nhưng những thủ đoạn và hành động đê hèn, tàn bạo mà
Trung Quốc đã làm để có được quyền kiểm soát với quần đảo Hoàng Sa và
một số bãi đá ở Trường Sa của Việt Nam như bây giờ thì rất gần và không
khó để kiểm chứng: nhân chứng vẫn còn, vật chứng vẫn còn, hình ảnh và
thậm chí cả video vẫn còn đó. Chỉ cần vào Internet, gõ “Hải chiến Trường
Sa”, sẽ thấy video và vô số hình ảnh quân đội Trung Quốc xâm lược, tàn
sát đẫm máu các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đang canh giữ chủ
quyền Tổ quốc ở bãi đá Gạc Ma ngày 14/3/1988. Những hình ảnh về việc
Trung Quốc lợi dụng tình hình Việt Nam đang gấp rút thống nhất đất nước,
cho tàu chiến đánh cướp trắng trợn phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam năm 1974 cũng không gì có thể xóa bỏ được trong các kho lưu trữ
vô tận trên Internet.
Rõ là Trung Quốc đã “vừa ăn cắp” lại “vừa la làng”.
Bộ mặt của kẻ giang hồ cơ hội của Trung Quốc còn bộc lộ rõ qua cách hành xử của Bắc Kinh trong vụ kiện của Philippines.
Trung
Quốc hiện thời cũng không dám “ló mặt” tham dự các phiên tòa xử vụ kiện
liên quan đến tranh chấp Biển Đông mà Philippines đã khởi kiện lên Tòa
trọng tài thường trực (PCA) ở La Haye từ năm 2013.
Không
những vậy, Bắc Kinh còn cáo buộc Philippines đã “lạm dụng Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 để cưỡng chế cơ chế giải
quyết tranh chấp, đơn phương đưa ra và cố ý thúc đẩy trọng tài
tranh chấp Biển Đông, là khiêu khích chính trị đội lốt pháp
lý”. Bên cạnh đó, Trung Quốc khăng khăng cho rằng, là quốc gia chủ
quyền và nước ký UNCLOS 1982, Trung Quốc có quyền tự chủ lựa
chọn phương thức và trình tự giải quyết tranh chấp và giải pháp
mà Bắc Kinh lựa chọn là đàm phán và thương lượng.
Không
những cáo buộc Philippines, mà Trung Quốc còn ngang ngược tố cáo Tòa
án Trọng tài Thường trực PCA đã bất chấp thực chất vụ án trọng
tài là vấn đề chủ quyền lãnh thổ và hoạch định đường biên
giới trên biển, cùng vấn đề liên quan, xâm phạm nghiêm trọng đến
quyền lợi hợp pháp của Trung Quốc, với tư cách là nước ký Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, làm tổn hại đến tính hoàn
chỉnh và tính thẩm quyền của Công ước này.
Ngay
trong cái lý lẽ của Bắc Kinh khi “tố cáo” Philippines lạm dụng UNCLOS
1982 đã có lắm điều nực cười, bởi Trung Quốc tự cho họ có quyền lựa chọn
phương thức, trình tự giải quyết tranh chấp là đàm phán và thương lượng
còn Philippines thì lại không được cậy nhờ đến một cơ chế trọng tài
theo luật pháp quốc tế, trong khi giải pháp này là rất hợp pháp, hợp lý,
hợp tình và rất văn minh.
Rõ
ràng, Bắc Kinh luôn tìm cách biến tấu, diễn giải luật pháp quốc tế theo
hướng có lợi cho họ và sẵn sàng không đếm xỉa đến các quy định luật
pháp nếu như thấy bất lợi cho họ.
Linh Phương
No comments:
Post a Comment