Bửu Châu
LTS: Đọc bài này mới thấy những người bênh vực "nhà Ngô" vô
cùng gian trá! Đơn giản là vì "cú" không thể thành "phượng hoàng" mà
không có phù phép. Những việc làm gian manh của họ xưa nay nhiều biết
bao và khó ai có thể lật tẩy hết được trong một thời gian ngắn. Người ta
chỉ có thể may mắn mới khám phá được một vài chuyện mà từ đó mới thấy
rằng mưu kế của họ vô cùng tinh vi. Bài học mà ta chỉ có thể học là đừng
bao giờ tin những gì họ nói hay viết, vì trong đó chắc chắn phải có
điều gian trá. (SH)
Sau 1975 và tại hải ngoại, lợi dụng
tình trạng khó kiểm chứng độ khả tín của tài liệu và tình hình càng
ngày càng vắng dần nhân chứng, đồng thời, nhằm thực hiện lời nguyền đầy
hận thù “… tôi chết trả thù cho tôi” của con chiên cuồng tín Ngô Đình Diệm, nhóm tàn dư Cần lao-Công giáo của gia đình nhà Ngô (“the House of Ngo”,
như người Mỹ cũng thích dùng từ nầy) đã tung ra trên các diễn đàn
Internet và một số báo giấy những tài liệu ngụy tạo trắng trợn, nhằm
hai mục đích đan kết phối hợp với nhau:
HAI MỤC ĐÍCH, MỘT CÔNG MỘT THỦ
● Một mặt, họ xuyên tạc và bôi nhọ tính chính đáng của Phật tử và
trí thức Việt Nam trong cuộc vận động đòi bình đẳng tôn giáo dài 6
tháng trong năm 1963, bằng cách chụp mũ cho phong trào Phật giáo là khi
thì do CIA Mỹ điều động, khi thì … ngược lại, do Cộng sản Bắc Việt
lãnh đạo. Tiêu biểu như bốn bài sau đây:
1)- Ngụy tạo ra một Đại úy CIA bí mật tên là James Scott như là
hung thủ duy nhất, đặt chất nổ trong vụ thảm sát 8 Phật tử tại khuôn
viên Đài Phát thanh Huế ngày 8-5-1963 (http://www.talawas.org/?p=5924).
2)- Vu khống cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày
11-6-1963 tại Sài Gòn là do một “cán bộ Cộng sản nằm vùng” tên Nguyễn
Công Hoan lên kế hoạch và đã tự tay tiêm thuốc mê rồi tưới xăng đốt
Ngài (http://thuvienhoasen.org/...-nguyen-kha).
3)- Bôi nhọ cuộc “tự hủy mình” của nhà văn Nhất Linh ngày
7-7-1963, cho đó chỉ là hành động quẫn trí vì Nhất Linh vốn bị bệnh tâm
thần từ năm 1939, lúc viết truyện Bướm Trắng. (http://www.nguoi-viet.com/...).
4)- Dựng ra một kết luận không hề có cho Bản Phúc trình A/5630 của “Phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc tại Nam Việt Nam” (http://hoangnamgiao.blogspot.com/2013/07/blog-post.html ).
● Mặt khác, họ tìm cách “đánh bóng” cho hai lãnh tụ Ngô Đình Diệm
và Ngô Đình Nhu một lớp sơn để che dấu những sai lầm và tội ác mà hai
ông nầy đã gây hại cho đồng bào miền Nam.
Vì đồng bào xứ Huế (nơi biết rõ gốc gác và tư cách của dòng họ Ngô Đình nhất) đã từng lên án rằng: Họ Ngô có bốn gian hùng / Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên
(trích từ đồng dao xứ Huế trong những năm đầu thập niên 1960’) nên bây
giờ, nhóm tàn dư của nhà Ngô phải gian trá gán bừa cho lãnh tụ của
mình những giải thưởng có kích thước quốc tế, những tác phẩm nghiên cứu
lý luận có giá trị cao … hầu “dựng tượng” văn hóa cho lãnh tụ!!! Tiêu
biểu như hai bài sau đây:
1)- Phong bừa cho ông Diệm làm khôi nguyên giải thưởng “Leadership Magsaysay Award”
mà họ bịa ra là vào năm 1962 (hay 1959?) với trị giá 10,000 (hay
15,000?) đô la Mỹ để ông Diệm mau mắn tặng số tiền nầy cho vị lãnh tụ
Phật giáo thế giới là ngài Đạt Lai Lạt Ma. (http://giaodiemonline.com/2013/03/suthat.htm).
2)- Bịa đặt ra những tình tiết không có thật để mạo nhận ông Nhu trở thành tác giả của cuốn khảo luận chính trị “Chính đề Việt Nam”
hầu chứng tỏ rằng lý thuyết gia “uyên bác” của chế độ cũng có tác phẩm
lập thuyết như ai! Tuy nhiên, công trình nghiên cứu giá trị nầy thật
ra là của ông Tùng Phong Lê Văn Đồng, một người từ Pháp về, từng tham
gia chính quyền ông Diệm (Bộ Canh Nông) nhưng đã bỏ đi không hợp tác
nữa vì bất đồng quan điểm. (http://hoangnamgiao.blogspot.com/...)
Tại sao những xuyên tạc, gian trá và ngụy tạo nầy không được phổ
biến rộng rãi khi hai ông Diệm Nhu còn nắm quyền sanh sát trong tay với
bộ máy mật vụ ác ôn và hệ thống tuyên truyền muốn nói gì thì nói? Thậm
chí trong những năm đầu thập niên 1970’, khi nhóm Cần lao-Công giáo
trở lại khống chế chính trường miền Nam với sự thỏa hiệp của con chiên
Nguyễn Văn Thiệu để thiết lập một chế độ “Diệm không Diệm” (nhóm từ của
Robert Shaplen trong The Cult of Diem), những vu khống, bôi
nhọ, mạo nhận hoặc “bốc thơm” như thế nầy hầu như không xuất hiện mà
đến nay, ra hải ngoại và sau 1975, mới được ngụy tạo hoặc kích hoạt lại
để tung ra một cách quy mô có hệ thống như thế? Câu trả lời gồm 3 vế.
* * *
CÂU TRẢ LỜI BA VẾ
(i) Vế thứ nhất: hội-chứng-bầy-đàn.
Sau biến cố long trời lở đất vào mùa Xuân năm 1975, về phương diện
lịch sử và trong lãnh vực tài liệu, khi đề cập đến Miền Nam, hầu như cà
hai “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc” đều muốn viết gì thì viết tùy ý
đồ chính trị, chẳng còn tiêu chuẩn chuyên môn nào hay tư cách đạo đức
gì được tôn trọng hay làm chuẩn mực nữa. Hiện tượng nầy lan tràn một
phần vì trong cơn vật đổi sao dời đó, luôn luôn có một đám đông bị hội-chứng-bầy-đàn, có đầu mà không có óc, sẳn sàng đưa “sọ” cho những phù thủy “nhồi” gì cũng tin.
Một ví dụ nhồi sọ điển hình là trường hợp nữ sinh viên Nguyễn
Phương Uyên. Em sinh năm 1992 trong một gia đình theo đạo gia tiên thờ
ông bà, vì chống chế độ nên bị tòa kết án tù treo 3 năm. Phương Uyên
ra khỏi tòa sau phiên xử đó vào tháng 8/2013. Nhưng dù chỉ mới hơn hai
tháng sau, và dù không đủ điều kiện để tiếp cận thông tin đa chiều, do
đó không biết gì (và biết đúng) về chế độ Ngô Đình Diệm 50 năm trước
đây, thế mà vẫn được mấy “cha” Dòng Chúa Cứu Thế trao bằng khen gì đó,
rồi “nhồi sọ” đưa lên mộ ông Diệm khóc thương vào dịp mồng 1 tháng 11
cùng năm 2013 để mấy “cha” chụp hình phát tán khoe trên Internet.
Hiện tượng nhồi sọ nầy không những thành công dễ dàng với một em
nữ sinh viên trẻ tuổi, mà còn “lừa” được một đám trí thức Hà Nội nông
nổi và vọng động, vì quá bất mản với đảng Cộng sản nên tung hô bất kỳ
cái gì họ “vớ” được (và xem đó như mẫu mực của “dân chủ tự do”), kể cả
hai nền Cộng hòa cũ ở miền Nam mà họ hầu như không có những kiến thức
đầy đủ và sâu sắc về quá trình hình thành và bản chất thực sự của hai
nền Cộng hòa nầy!
Sinh viên Phương Uyên cầu kinh cùng các cha dòng Chuá Cứu Thế
và chụp hình cạnh ngôi mộ của ông “Huynh” (Ngô Đình Diệm) trong ngày
1-11-2013 (Hình: Dân Chúa Đồng Hành – dcdh.bplaced.net)
(ii) Vế thứ nhì: Mạng lưới thông tin
Đó là kỷ năng lan tỏa thông tin tức thời và khắp nơi của Internet. Mạng lưới Internet
được khai sinh (packet networking) từ thập niên 1950’, triển khai
trong thập niên 1960’ (ARPANET), rồi đi vào ứng dụng phổ quát và khai
dụng đại trà trong những năm cuối thập niên 1980’ (ISPs). Internet với
những ứng dụng trong lãnh vực truyền thông xã hội (social media), một
phần, đã trở thành công cụ tuyên truyền hữu hiệu cho những kẻ giấu
mặt bất lương hay minh danh nhưng không biết ngượng. Cứ nói láo mãi và
nói láo nhiều, thế nào cũng có người tin. Không tin bây giờ thì để lại
tài liệu cho thế hệ sau … “tham chiếu”! (Kỹ thuật nhồi sọ nầy đã được bộ
máy tuyên truyền của Đức Quốc xã và Đệ Tam Quốc tế học thuộc từ một
bậc thầy sành sỏi là Giáo hội Công giáo, vốn đã xử dụng để truyền đạo
kinh qua cả nghìn năm trước).
Một ví dụ điển hình của hiện tượng lan tỏa rộng rãi lời nói láo
trong cyberspace là sự kiện một cựu quan chức cao cấp của Việt Nam Cộng
Hòa đã dùng Internet để liên tục gian trá khẳng định rằng lãnh tụ của
mình là tác giả của một cuốn sách chính luận có giá trị trí thức cao.
Thật vậy, nguyên tác phẩm “Chính Đề Việt Nam” đã được ông Tùng
Phong Lê Văn Đồng chấp bút và xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1965. Thế mà
ông Tôn Thất Thiện, một “nhà nghiên cứu” hoài-Ngô (đã từng làm Giám đốc
Báo chí kiêm Thông dịch viên riêng của ông Diệm, và sau 1963, làm đến
Bộ trưởng Bộ Thông Tin của Đệ Nhị Cộng Hòa), mãi đến năm 2009 vẫn cứ
tiếp tục khẳng định một cách bất lương và không biết ngượng trong một
bài viết được phát tán rộng rãi trên Internet, rằng tác phẩm nầy là “viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại” vốn “kết tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá thân cận”. Ông Thiện nầy, có bằng tiến sĩ ở Anh, vừa làm báo chí vừa làm thông tin trong cả hai nền Cộng hòa, người tự nhận là “tôi đã
được học hỏi ở những Đại học có tiếng là đứng hàng đầu thế giới về
các môn Chính trị, Kinh tế, Xã hội học, tôi đã đọc rất nhiều sách, báo,
về vấn đề phát triển”, thế mà trong 44 năm (1965-2009) lạikhông
biết đến (?) nên không nhắc đến tác giả thật, và duy nhất, là ông Tùng
Phong Lê Văn Đồng, nguyên Đổng lý Văn phòng Bộ Canh Nông thời ông Diệm,
ở ngay tại Sài Gòn. Ông tưởng sau 1975 ra đến hải ngoại rồi muốn nói
gì thì nói sao? Thật là bất lương hết thuốc chữa!
● Bìa “Chính Đề Việt Nam” của Tùng Phong, Nxb Đồng Nai, Sài Gòn 1965.
● Ông Tiến sĩ Bộ trưởng Tôn Thất Thiện, người đánh tráo tác giả để đề cao lãnh tụ Ngô Đình Nhu.
● Google ngày 14-1-2016 với keyword là tựa đề bài viết của ông
Thiện (“CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM MỘT VIÊN NGỌC QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG
NHÂN LOẠI”), Internet cho 199,000 kết quả (đường link URL) dẫn về những
trang web/blog hoài-Ngô như “Hồn Việt”, “Chúa Cứu Thế”, “Bảo Cệ Cờ
Vàng 2012” … Và sự dối trá nầy sẽ cứ, theo thời gian, tiếp tục lan tràn
trong không gian Internet như ý đồ bất lương của đám hoài-Ngô.
(iii) Vế thứ ba: Thế lực đứng sau
Nhưng “hội-chứng-bầy-đàn” và mạng lưới Internet mà thôi cũng chỉ
mới là những điều kiện “đủ”, nên vẫn chưa kết hợp được để có cả một
chiến dịch rộng lớn, phối hợp nhịp nhàng trong và ngoài nước, nhằm
xuyên tạc lịch sử và bôi nhọ các tôn giáo khác với một ý đồ chính trị
rất rõ ràng. Chiến dịch nầy, để thực hiện nó ở tầm cao của chiến tranh
tuyên truyền trong thời hiện đại, phải được một thế lực cực mạnh lãnh
đạo và cung cấp phương tiện mới làm được. Thế lực đó, như lịch sử đã
chứng nghiệm (từ thời cố đạo Alexandre de Rhodes “gọi Thích Ca bằng thằng”) và thực tế đang chứng minh (như Giáo hoàng Benedict 16 gọi Phật giáo là một loại tâm linh tự dâm – “autoerotic spirituality”) chỉ có thể là Vatican. Và Vatican chính là vế thứ ba trong chiến dịch tuyên truyền xám đó!
Thật vậy, trong “mùa gặt lớn” mà Vatican gọi là “chương trình cứu độ của Giêsu”
tại lục địa Á châu, theo đúng chiến lược xâm lăng văn hóa để “cải đạo,
cướp linh hồn” được Giáo hoàng Gioan Phaolồ 2 đề xuất trong “Tông huấn
Giáo hội tại châu Á” (Ecclesia In Asia) vào năm 1999 tại Ấn Độ (http://giaodiemonline.com/2009/07/tonghuan.htm),
Vatican đã cởi lên để khuynh loát làn sóng bất mãn với chính quyền
Việt Nam bằng một chiến dịch “thánh hóa” trường hợp Ngô Đình Diệm như
một viên đá nhắm hai con chim:
Vừa bóp méo quá khứ để vinh danh dòng họ con chiên Ngô Đình và
Đệ Nhất Cộng hòa hầu mong “giải tội” cho Giáo hội Công giáo Việt Nam về
quá trình 100 năm (1858-1954) làm tay sai đắc lực cho thực dân Pháp
xâm lăng và đô hộ Việt Nam; lại vừa hướng về tương lai, dùng Giáo hội
Công giáo để tiêu diệt chế độ Xã hội Chủ nghĩa tại Việt Nam hầu thành
lập một “Philippines toàn tòng thứ nhì”, gợi hứng từ chế độ giáo trị Đệ
nhất Cộng hòa của Ngô Đình Diệm, trên bán đảo Hoa-Ấn. Ý đồ chiến lược
nầy của Vatican, từ góc độ chính trị, là lập lại trường hợp Ba Lan vào
mùa Hè năm 1989, chỉ khác là lần nầy “giòng nước lũ” chỉ đại diện không
đến 10% dân số Việt Nam nhưng được Internet và hội-chứng-bầy-đàn
khuyếch đại lên nhiều hơn …
Từ đó, ta không lấy làm lạ khi thấy những động thái tưởng là rời
rạc nhưng thật ra kết hợp nhất quán và đều khắp để phục vụ cho những
mục tiêu chiến lược đó của Vatican:
Từ Giáo hoàng Gioan Phaolồ II viết “Crossing the Threshold of Hope”
(Bước qua Ngưỡng cửa Hy vọng) để phỉ báng Phật giáo, đến rửa tội cho
nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngay trước giờ lâm chung để tạo uy tín truyền
đạo dù ông nầy trước đó chỉ muốn quy y Tam bảo – Từ ồ ạt và gấp rút
phong một con số kỷ lục 117 người cả Tây lẫn Ta làm “thánh tử đạo” tại
Việt Nam chỉ trong vòng một năm (1988), đến một tên nhà văn Công giáo
là Chu Tất Tiến ở tại Little Saigon (Mỹ) to mồm vu khống rằng “Phật giáo Việt Nam giết hại hơn 100 nghìn người cùng máu đỏ da vàng chỉ vì họ theo đạo Ca Tô”.
– Từ vận động nhà nước Việt Nam đặt lại tên đường tên trường cho những
thành phần Công giáo hợp tác với chính quyền thuộc địa Pháp như Nguyễn
Trường Tộ, Petrus Ký, Nguyễn Bá Tòng, cho đến ra sách vinh danh ông
Linh mục Trần Lục, người đã từng mộ quân và dẫn đường cho quân Pháp
đánh chiếm chiến lũy Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng. – Từ Giám
mục Ngô Quang Kiệt xách động giáo dân xuống đường bạo động đòi lại một
mảnh đất vốn của chùa Báo Thiên, đến vận động nhà nước cho xuất bản
sách (Việt dịch) của một nữ tác giả Mỹ viết về bà Nhu. Đó là chưa kể
hàng trăm video được phát tán trên YouTube để đề cao Ngô Đình Diệm và
phỉ báng Phật giáo và Tướng Dương Văn Minh …
* * *
CỤ TRẦN VĂN HƯƠNG VÀ BÀI THƠ “CẢM HOÀI”
Trong chiến dịch thiên la địa võng, huy động sức mạnh tổng hợp
vừa thần quyền vừa thế quyền đó của Vatican, sự kiện cụ Trần Văn Hương
làm thơ “mắng” ông Ngô Đình Diệm là “thằng ngu ngốc vô liêm sĩ” (vì bài
thơ Cảm Hoài) là một trường hợp tuyên truyền xám điển hình khác
về thủ đoạn “thấy sang bắt quàng làm họ” để tô son trét phấn cho lãnh
tụ, do “bầy tôi” của ông Diệm thực hiện. Bài thơ Cảm Hoài nầy,
một dạo, đã được tàn dư của ông Diệm phổ biến giới hạn trong nước mà họ
chú thích rằng tác giả là ông Diệm. Bài thơ được tán dương là một
tuyệt tác với “khẩu khí của nhà ái quốc” đang trong thời kỳ làm ẫn sĩ
phải “bao năm lê gót nơi quê người” Mỹ. Đến lúc ra đến hải ngoại
sau 1975, bài thơ lại được phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn và bổng
trở thành “viên ngọc quý của thi ca Việt Nam” mà chỉ có người có tấm
lòng yêu nước thương nòi như “chí sĩ” Ngô Đình Diệm mới sáng tác nỗi.
Ai cũng bị “đầu độc” tin như thế cho đến khoảng năm 1995, sau khi
Mỹ-Việt bang giao, chuyện về Việt Nam để tìm mua sách cũ hoặc gặp lại
bạn bè đồng nghiệp xưa trở nên dễ dàng hơn, nhiều người mới phát giác
ra rằng tác giả bài thơ Cảm Hoài là một vị khác. Và chuyện gán
cho ông Diệm là tác giả bài thơ nầy chỉ là trò gian trá, mạo nhận của
nhóm Cần lao-Công giáo để bốc thơm ông Diệm mà thôi!
Ngoài ra, cũng nhờ vậy mà thế hệ sau mới biết được rằng trể nhất
là từ năm 1974, một số ít người sinh hoạt thi ca trong nước đã biết vụ
lừa dối nầy rồi. Đặc biệt, một trong những người đó là cụ Trần Văn
Hương, đã biết từ năm … 1961!
Cụ Trần Văn Hương là một nhà giáo, một nhân sĩ nỗi tiếng tại miền
Nam. Cụ từng tham gia chính quyền Việt Minh, nhưng rồi vì bị quy chụp
là Việt gian nên cụ bỏ kháng chiến về quê Vĩnh Long sống ẩn dật. Sau
khi đất nước qua phân, cụ hoạt động trở lại và đã từng là Đô trưởng
Thành phố Sài Gòn dưới thời ông Diệm. Nhưng chỉ được vài năm rồi cũng
bất mãn vì bản chất độc tài của chế độ nầy nên cụ và một số đồng chí
thành lập nhóm Tự Do Tiến Bộ, ra Tuyên Ngôn (năm 1960 tại khách
sạn Caravelle) để lên án chế độ Diệm. Cũng trong năm 1960 đó, cụ ủng hộ
cuộc binh biến của binh chũng Nhãy Dù để lật đổ ông Diệm nên bị Nha
Tổng Giám đốc Cảnh Sát và Công An Quốc Gia bắt cầm tù vào ngày
12-11-1960. Cụ được phóng thích khoảng 5 tháng sau đó (7-4-1961).
Năm 1964, cụ trở lại tham chính và đã từng giữ những chức vụ Thủ
Tướng, Phó Tổng thống và Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Sau 1975, cụ
chọn ở lại quê hương, tiếp tục sống ở căn nhà cũ ở Sài Gòn. Cụ mất năm
1982. Ngày nay, nhắc đến cụ, người ta vẫn gọi cụ là một mẫu mực tiêu
biểu và đúng đắn của một “Sĩ phu Nam kỳ”. (Xem toàn bộ tiểu sử và hoạt động của cụ tại Trần Văn Hương)
Trong thời gian bị tù dưới chế độ Diệm, cụ và một số bạn tù chính
trị khác (như các vị Tạ Chương Phùng, Phan Bá Cầm, Trần Văn Tuyên, Phan
Khắc Sữu, Nguyễn Trung Hậu, Phan Quang Đán, Phan Huy Quát, …) thỉnh
thoảng có làm thơ để ký thác tâm sự. Sau nầy, cụ tập trung một số thơ
của mình và của các bạn đồng chí cùng cảnh ngộ in thành một tuyển tập
lấy tên là “Lao Trung Lãnh vận” (Những vần thơ lạnh trong tù).
Cụ Trần Văn Hương (1902-1982) và Hình bìa trước của tập thơ Lao Trung Lãnh Vận, Sài Gòn, in lần thứ ba, 1974.
Trong tuyển tập thơ nầy, cụ có cho đăng bài thơ Cảm Hoài vốn thực sự của cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác mà một người bạn thơ từng bị “tuyên truyền”, nói là của “chí sĩ Ng. Đ.D.”.
Sự thực là trong giai đoạn đó, vì bộ máy tuyên truyền của chế độ ông
Diệm đã đánh tráo tác giả nên có rất nhiều người bị lầm, tưởng đó là
thơ của ông Diệm thật. Cụ Trần Văn Hương và một số bạn thơ cũng đã bị
lừa như thế nên sau nầy, khi phát hiện ra bị lừa, đã làm thơ “đả kích ông ta” (ông Diệm). Vì vậy mà trong bài thơ “Chuyện Trớ Trêu” làm cuối năm 1961 để hoạ lại bài thơ “Phúng Thế” của người bạn “đả kích” ông Diệm từ năm trước, cụ Trần Văn Hương đã kết bài bằng hai chữ mà “muôn đời” sau sẽ dành cho nhà “chí sĩ” Ngô Đình Diệm:
Tấp tểnh đua đàn tranh “chí sĩ”
Muôn đời để mãi tiếng thằng công
“Thằng công” là thằng gì? Cuối bài thơ, cụ Trần Văn Hương đã giải thích rằng chữ “thằng công” vốn là diễn âm tiếng Việt của một chữ Pháp là “Un con (tiếng thô tục để mắng mấy thằng ngu-ngốc vô liêm sỉ)”
Dưới đây là phần trích dẫn và phóng ảnh ba bài thơ “Cảm Hoài”, “Phúng Thế” và “Chuyện Trớ Trêu” trong tác phẩm Lao Trung Lãnh Vận của cụ Trần Văn Hương:
Bắt đầu trích, với 3 chú thích của NK trong [ ]
● [Trang 128]
“Một bữa kia, ông bạn Long Giang ĐỖ PHONG THUẦN có đưa cho xem một bài thơ “Cảm Hoài”, nói là của “chí sĩ NG.Đ.D.”. Sau mới biết đó là bài thơ của ông NGUYỄN SĨ GIÁC cũng gọi là NGUYỄN SĨ XÁC, hiện còn mạnh giỏi. Hình như ông cũng đã chịu nhiều gian khổ vì chuyện nước nhà, nhơn lúc buồn sanh cảm làm ra bài nầy:
Gươm đàn nửa gánh muốn sang sông
● [Trang 130]
Một số thi-hữu tưởng bài thơ nầy thật của “chí sĩ” nọ, nên họa vận đả kích ông ta [ông Diệm]; tôi cũng thế…
Cũng nhơn bài thơ trên, ông bạn LONG GIANG có gởi cho xem bài thơ “Phúng Thế” như sau đây:
Đường đời chen lấn, chợ đời đông.
Trớ-trêu mật ít lại ruồi đông!
● [Trang 128]
“Một bữa kia, ông bạn Long Giang ĐỖ PHONG THUẦN có đưa cho xem một bài thơ “Cảm Hoài”, nói là của “chí sĩ NG.Đ.D.”. Sau mới biết đó là bài thơ của ông NGUYỄN SĨ GIÁC cũng gọi là NGUYỄN SĨ XÁC, hiện còn mạnh giỏi. Hình như ông cũng đã chịu nhiều gian khổ vì chuyện nước nhà, nhơn lúc buồn sanh cảm làm ra bài nầy:
CẢM HOÀI
Gươm đàn nửa gánh muốn sang sông
Hỏi bán: Thuyền không lái cũng không!
Xe muối nặng-nề thương vó ký,
Đường mây rộng-rãi tiếc chim hồng.
Vá trời lấp bể, người đâu vắng?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đồng!
Lần-lữa nắng mưa trong cuộc thế,
Cắm sào đợi nước thưở nào trong!
(Theo trong quyển “Chơi Chữ” của LÃNG NHÂN)
● [Trang 130]Một số thi-hữu tưởng bài thơ nầy thật của “chí sĩ” nọ, nên họa vận đả kích ông ta [ông Diệm]; tôi cũng thế…
Cũng nhơn bài thơ trên, ông bạn LONG GIANG có gởi cho xem bài thơ “Phúng Thế” như sau đây:
PHÚNG THẾ
Đường đời chen lấn, chợ đời đông.
Chác lợi mua danh mới phập phồng
Trách kẻ ham giàu bôi sử sách
Phụ người công khó giúp non song
Con buôn gặp mối đeo như đỉa,
Thằng mổng no cơm hót tợ nhồng
Ái quốc ưu dân, là quảng cáo
Ngân-hàng ngoại quốc dẫy đầy công (1)
LONG GIANG (Tháng chạp, 1961)
- - Công: Un compte de dépôt, un compte en banque
(số tiền gởi ở ngân hàng). [Hàm ý rằng gia đình nhà Ngô mở miệng thì
nói thương nước thương dân, nhưng thực ra đó chỉ là miệng lưỡi “quảng
cáo” vì chính nhà Ngô đã chuyển tiền ra nhiều trương mục của ngân hàng
nước ngoài rồi - NK]
- [Trang 131]
CHUYỆN TRỚ-TRÊU
Trớ-trêu mật ít lại ruồi đông!
Thầm nghĩ cười ai mũi sớm phồng!
Môi mỏng khoe lo dân với nước,
Mặt dày quên thẹn núi cùng song.
Thấy lâu xốn mắt, lòng lang sói
Nghe lắm rườm tai, giọng cưỡng nhồng (1)
Tấp tểnh đua đàn tranh “chí sĩ”
Muôn đời để mãi tiếng thằng công (2)
(26-12-1961)
(1) Trong Nam dùng 2 tiếng: a) nhàm: nghĩa là nghe chán lắm, - b) nhờm: nghĩa là nghe thấy gớm ghê lắm. - Chử “rườm”, ngoài Bắc, gồm hết hai ý ấy.
(2) Un con (tiếng thô tục để mắng mấy thằng ngu-ngốc vô liêm sỉ) – Ông bạn giả-ngộ dùng một tiếng Pháp làm vần thơ, nên tôi cũng dùng một tiếng Pháp trùng-âm để làm vần họa lại. [Nhấn mạnh của NK][Hết trích]
Hình: Ba trang trong tác phẩm Lao Trung Lãnh Vận - Trang 128, bài “Cảm Hoài” của cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác; trang 130, bài “Phúng Thế” của cụ Long Giang Đỗ Phong Thuần; và trang 131, bài họa “Chuyện Trớ Trêu” của cụ Trần Văn Hương, có cước chú số (2) để giải thích hai chữ “Un con (tiếng thô tục để mắng mấy thằng ngu ngốc vô liêm sĩ)”
Vậy thì cụ Nguyễn Sĩ Giác là ai mà đám tàn dư Ngô Đình Diệm
phải hèn hạ dùng thủ đoạn mạo nhận, “thấy người sang bắt quàng làm họ”
để đánh bóng cho lãnh tụ không thực tài, không thực danh và không thực
lực nên phải dựa hơi người khác!!!
Trích đoạn dưới đây của một người học trò của cụ Nguyễn Sĩ Giác
cho ta biết vài nét chấm phá về thân thế và sự nghiệp của Cụ. Tư cách
và hành hoạt của Cụ Nghè Giác như vậy nên đám tàn dư nhà Ngô gian trá
muốn cho lãnh tụ của mình “bắt quàng làm họ” thật phải!:
[Bắt đầu trích - nguyên văn, trừ tấm hình ông Diệm được NK thêm vào để minh họa bài viết]
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác (1888- 197?) là giáo sư Hán Văn tại trường đại học Văn Khoa và Sư Phạm Sài gòn trong thập niên 60.Tiên sinh cũng như giáo sư Nguyễn Huy Nhu ,Viện Đại Học Huế là những vị tiến sĩ cuối cùng của nhà Nguyễn.
Nguyễn Sĩ Giác tiên sinh sinh năm mậu tí (1888) quán xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông , là con trai của cử nhân Nguyễn Duy Nhiếp, cháu nội của tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp, đỗ tiến sĩ khoa canh tuất, niên hiệu Duy Tân thứ tư (1910) vào lúc 23 tuổi, đồng khoa với các phó bảng Hoàng Tăng Bí, Bùi Kỷ , trước Đinh Văn Chấp một khoa (1913), trước Nguyễn Huy Nhu, Nguyễn Can Mộng hai khoa (1916).
Nguyễn Trọng Hợp là cháu bốn đời của Nguyễn Công Thái (1684-1758), đỗ tiến sĩ khoa Ất Vị (1715), làm quan đến chức Tể tướng. Như vậy, tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác cùng thi sĩ Tản Đà chung một tổ tiên.
[Hết trích]
(Trích từ “Nguyễn Sỹ Giác Thi Văn Tập”, Lời Nói Đầu, của Nguyễn Thiên Thụ
http://sontrung.blogspot.com/2010/04/nguyen-si-giac-thi-van-tap.html )
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác (1888- 197?) là giáo sư Hán Văn tại trường đại học Văn Khoa và Sư Phạm Sài gòn trong thập niên 60.Tiên sinh cũng như giáo sư Nguyễn Huy Nhu ,Viện Đại Học Huế là những vị tiến sĩ cuối cùng của nhà Nguyễn.
Nguyễn Sĩ Giác tiên sinh sinh năm mậu tí (1888) quán xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông , là con trai của cử nhân Nguyễn Duy Nhiếp, cháu nội của tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp, đỗ tiến sĩ khoa canh tuất, niên hiệu Duy Tân thứ tư (1910) vào lúc 23 tuổi, đồng khoa với các phó bảng Hoàng Tăng Bí, Bùi Kỷ , trước Đinh Văn Chấp một khoa (1913), trước Nguyễn Huy Nhu, Nguyễn Can Mộng hai khoa (1916).
Nguyễn Trọng Hợp là cháu bốn đời của Nguyễn Công Thái (1684-1758), đỗ tiến sĩ khoa Ất Vị (1715), làm quan đến chức Tể tướng. Như vậy, tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác cùng thi sĩ Tản Đà chung một tổ tiên.
[Hết trích]
(Trích từ “Nguyễn Sỹ Giác Thi Văn Tập”, Lời Nói Đầu, của Nguyễn Thiên Thụ
http://sontrung.blogspot.com/2010/04/nguyen-si-giac-thi-van-tap.html )
Trái: Tác giả thật của bài thơ “Hoài Cảm”, Cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác
(Hình: sontrung.blogspot.com) – Phải: “Tác giả dỏm” Ngô Đình Diệm
do nhóm tàn dư nhà Ngô gán ghép phịa ra. (Hình: LIFE)
do nhóm tàn dư nhà Ngô gán ghép phịa ra. (Hình: LIFE)
* * *
KẾT LUẬN
Để kết luận, xin chỉ nhấn mạnh một điều: Trong suốt 9 năm chấp
chánh của ông Ngô Đình Diệm và gia đình của ông, xã hội miền Nam gồm
nhiều thành phần đã lấy những chọn lựa khác nhau trước chế độ mới. Lẽ
xuất xử thì tùy từng người trước tình thế mới, nhưng đặc biệt có một
thành phần trí thức, dù trong hoàn cảnh nào cũng “gìn vàng giữ ngọc” để
bảo tồn nguyên khí quốc gia.
Đó là những vị như Tăng Xuân An, Hoàng văn Chí, Nguyễn Xuân Chữ, Vũ
Hoàng Chương, Phùng Tất Đắc, Trần Văn Đỗ, Hồ Sỹ Khuê, Tạ Chương Phùng,
Phan Huy Quát, Doãn Quốc Sĩ, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Tường Tam, Quách
Tấn, Đoàn Thêm, Hoàng Trọng Thược, Nguyễn Thế Truyền, Dương Tấn Tươi,
Lương Trọng Tường, Trần Văn Văn, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Vỹ, … mà nhân cách
và khí tiết của họ thì dân chúng miền Nam lúc bấy giờ, cũng như sau
nầy, đều ngưỡng mộ.
Trong số họ, có người an phận trùm chăn nhìn cuộc hí trường lên
voi xuống chó, có người khinh bỉ bất hợp tác với gia đình kẻ cầm quyền.
Nhưng cũng có người lấy thái độ quyết liệt hơn, thẳng thắn lên án chế
độ, thậm chí còn công khai chống lại anh em nhà Ngô bằng võ lực bất
chấp tù đày. Cụ Trần văn Hương là một người trong số thành phần ưu tú
nầy.
Nếu một người khí phách và cương trực như Cụ mà, từ năm 1961, đã xem ông Ngô Đình Diệm là một “thằng ngu ngốc vô liêm sỉ” thì còn gì đề nói về ông ta, và về chế độ “nhân vị” của gia đình nhóm chóp bu quyền lực Ngô Đình nữa!!!
Bửu Châu
Đầu năm 2016
_________________
Bài đọc thêm:
- Ông Ngô Đình Diệm Làm Thơ (Thanh Thanh)
No comments:
Post a Comment