Nguyễn Mạnh Quang
Đây là lá thư (2) gửi quí vị cựu giáo sư và học sinh
Trường Kiểu Mẫu Thủ Đức
Ngày 31/5/2009
Thưa quý vị giáo sư,
BH và các em học sinh KMTD thân mến,
Trước
hết, tôi xin thành thật cám ơn em BH đã đặt ra một số thắc mắc. BH thấy
tôi làm thinh cho rằng tôi giận, nhưng không phải thế. Thắc mắc là
động thái của một người có lý trí. Tôi luôn luôn đón nhận những thắc
mắc có tính cách suy lý như trường hợp này. Có như vậy, chúng ta mới có
thể cùng nhau tìm ra những bí ẩn làm cho lịch sử bị chia ra hai dòng.
Tôi chỉ e ngại rằng khi bài tôi gửi ra sẽ làm phật lòng một số anh chị
dù tôi không hề nhắm đến cá nhân ai cả; lại bị lãnh thêm những lời chỉ
trích cá nhân, và có thể BH bị đổ tội là người “gây sóng gió”. Vì thế
tôi mới đình hoãn thư trả lời cho đến nay, vừa lúc không khí lắng dịu,
và cũng là để giữ lời hứa với BH. Biết làm sao hơn, khi tôi quan niệm
rằng những hận thù cá nhân hay xúc cảm của một thiểu số của dân tộc
phải nhường chỗ cho tiếng nói cho sự thật của lịch sử.
Tôi
xin đi ngay vào phần trả lời 3 vấn đề trong thư BH để khỏi mất thì giờ,
đồng thời cũng xin những ai không thích thì nên bấm delete để khỏi
phiền lòng.
Gồm các mục:
- Điểm thứ nhất - truyền thống đào mả kẻ thù
- Điểm thứ hai - vì thế mới có ngày 30/4/1975
- Điểm thứ ba - vấn đề tổng tuyển cử
- Nếu Thỏa Hiệp Geneva 1954 Được Thi Hành
- Kết Luận
- Điểm thứ nhất - truyền thống đào mả kẻ thù
- Điểm thứ hai - vì thế mới có ngày 30/4/1975
- Điểm thứ ba - vấn đề tổng tuyển cử
- Nếu Thỏa Hiệp Geneva 1954 Được Thi Hành
- Kết Luận
BH viết: “Em đang đọc về tay Việt gian ác ôn khét tiếng Ngô Đình Khả, cám ơn thầy Quang thật nhiều:
“Vai
trò của tên Việt gian Ngô Đình Khả (phụ thân của Ngô Đình Khôi, Ngô
Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện) cùng với Nguyễn Thân trong chiến dịch tấn công và tiêu diệt căn cứ nghĩa quân kháng chiến của
nhân dân ta dưới quyền chỉ huy của nhà ái quốc Phan Đình Phùng. Ngô
Đình Khả và Nguyễn Thân là hai người chủ động trong việc đào mả cụ Phan
Đình Phùng lấy hài cốt đem đốt thành tro, lấy tro trộn với thuốc súng,
rồi bắn xuống sông Lam Giang để trả thù cho những chiến dịch “Bình Tây
Sát Tả” của nghĩa quân ta trước đó. Cái truyền thống đào mả kẻ thù
những người đã chết để trả thù là của đạo Ca-tô đã có ở Âu Châu từ thời
Trung Cổ.”
“Em đang suy nghĩ lại về ông Ngô Đình Diệm ! Cám ơn thầy Quang đã dạy em điều MỚI LẠ này, lần đầu tiên em được biết :Cái truyền thống đào mả kẻ thù những người đã chết để trả thù là của đạo Ca-tô đã có ở Âu Châu từ thời Trung Cổ.”
“Em
bàng hoàng: Gia Long ! Thì ra Gia Long đã học cái MAN RỢ này từ đạo
Ca-tô thời Trung Cổ, đem ra áp dụng với người Anh Hùng Áo Vải Tây Sơn:
QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ! Gia Long là thằng TIỂU NHÂN ĐỐN MẠT ! "Thiên tử"
chó gì .”
Có thể việc
Vua Gia Long đào mả Vua Quang Trung là trường hợp cá biệt, nhưng cũng
rất có thể Gia Long đã học được cái ác tính hành hạ hài cốt của kẻ thù
này trong thời gian thân thiết với ông Giám-mục Pigneau de Béhain (Bá
Đa Lộc). Gia Long đã kết thân và tôn Bá Đa Lộc lên làm quân sư từ
khỏang giữa năm 1785 cho đến khi ông ta qua đời vào ngày 9 tháng 10 năm
1799. Hơn nữa, Bá Đa Lộc cũng là người vận động quân viện cho Gia Long
trong cuộc chiến cướp đoạt ngai vàng của triều đình Tây Sơn. Với địa vị
quan trọng và công lao quá lớn như vậy đối với Gia Long, tất nhiên
những hành động dã man của Gia Long đối với Vua Quang Trung và triều
đình Tây Sơn rất có thể là do ảnh hưởng của Bá Đa Lộc mà ra, dù rằng
nhà tu hành thực dân xâm lược này đã qua đời trước đó chưa đầy hai năm.
Nói đến cái truyền thống đào mồ của những người đã chết để
trả thù trong đạo Ca-tô, tôi xin ghi lại dưới đây một vài trường hợp
trong hàng rừng chuyện cực kỳ dã man này:
1.- Tân giáo hoàng
đào mả giáo hoàng tiền nhiệm, lấy xác cho ngồi vào ghế bị cáo rồi lập
phiên tòa xử và hành hạ để trả thù. Sự kiện này được sách The Decline
and Fall of The Roman Church ghi lại với nguyên văn như sau:
“Giáo
Hoàng Formosus (891-896) chết và đã chôn được hơn 11 tháng rồi. Theo ý
muốn của bà Agiltruda (một bà Hoàng có thế lực trong giáo triều
Vatican), tân Giáo Hoàng Stephen VII (896-897) ra lệnh quật mồ Ngài,
lấy xác đem về Dinh Lateran cho mặc áo choàng của Giáo Hoàng và để ngồi
vào chiếc ngai vàng của giáo triều, rồi cùng các ông hồng y và giám
mục trong Tòa Thánh Vatican tiến hành phiên tòa xử tội. Đây là một
phiên tòa lừng danh về việc xử một cái xác chết của người bị thù ghét
Bà Agiltruda muốn có phiên tòa này đã từ lâu. Đó là lý do khiến cho bà
đem theo cô bé Morozia cùng đi với bà tới Dinh Lateran và bà vui cười
sung sướng vào lúc này. Trong phòng xử, mọi sự việc đều tiến hành đúng
như dự trù. Chính Giáo Hoàng Stephen VII và một công tố viên của giáo
triều đối chất với xác chết đã rữa thối này. Có một thanh niên trợ tế
18 tuổi run rẩy đứng bên cạnh để trả lời thay cho xác chết theo lời đã
dặn trước. Phiên xử bắt đầu khi Giáo Hoàng Stephen VII quát tháo với vẻ
mặt xanh xám trong cơn giận dữ: “Tại sao mày lại tiếm đoạt ngôi vị
giáo hoàng?” Cậu thanh niên trợ tế trả lời thay cho xác chết của Giáo
Hoàng Formosus: “Vì tôi là kẻ xấu.”
Vào lúc gay cấn
nhất của phiên tòa, các ông Hồng Y Sergius, Benedict, Paschalis, Leo,
John và nhiều nhân vật khác trong hàng giáo phẩm chạy ào tới xác chết
lột bỏ áo choàng (dành riêng cho giáo hoàng) và xé rời 3 ngón tay của
bàn tay mặt ra khỏi bàn tay. (Giống như các ông giáo hoàng khác, khi
còn sống, Giáo Hoàng Formosus thường dùng 3 ngón tay này để ban phước
lành trong khi làm lễ.) Sau đó, họ lôi xác chết này ra khỏi phòng xử.
Khi các ông hồng y và tu sĩ khác xúm nhau lôi xác chết này ra khỏi Dinh
Lateran và kéo lê theo dọc đường phố thì cô bé Marozia cũng có mặt ở
đó… Rồi thì họ liệng cái xác chết đó xuống sông Tiber làm cho nước sông
bắn tung tóe lên. Sau đó, Giáo Hoàng Stephen VII sai Hồng Y Sergius
đem 3 ngón tay đã xé rời khởi xác chết dâng lên cho bà Agiltruda theo
lời yêu cầu của bà ta.” [i]
2.-
Giáo sĩ của nhà thờ Vatican đào mả những người đã chết lấy xác rồi đốt
thành tro để trả thù. Chuyện này được ông Trần Quý kể lại trong cuốn
Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! như sau:
“Vào thế kỷ 13, dân ở
vùng Toulouse, miền Nam nước Pháp ngày nay nhận thấy Giê-hô-va độc ác,
đúng là quỉ Satan mạo nhận là Thiên Chúa, chớ không phải là Thiên Chúa
thật. Họ thấy vị thần ấy gớm ghiếc qua, bỏ không thờ nữa tuy họ vẫn
kính thờ Jesus. Họ lập thành Giáo Hội Ca-tha-ri. Giáo Hội Công La (Giáo
Hội La Mã) kết tội họ là tà đạo. Năm 1209, Giáo Hoàng Innocent III
(1198-1216) ra lệnh thánh chiến để diệt họ. Vua chúa ở miền Bắc đất
Pháp, ở đất Đức tuân lời, phái binh lính đến làm thành Thập Tự Quân để
đánh bọn tà đạo. Rất đông tín đồ Jesus phe giáo hoàng tới trợ lực Thập
Tự Quân. Đám quân này dưới quyền chỉ huy của giáo sĩ Amaud Amauri, đại
diện giáo hoàng, bao vây thành Béziers. Thành bị hạ vào ngày 22 tháng 7
năm 1209. Toàn dân ở trong thành bị giết hết kể cả đàn bà và trẻ con. Tòa án đạo Jesus theo đuổi trừng phạt cả những người bị kết tội là tà đạo dù họ đã chết rồi. Chẳng hạn, năm 1329, tòa án đạo Jesus ở Carcassonne cho đào mả bẩy người phạm tội tà đạo, móc xác lên đốt đi; của cải của họ bị tịch thu, dòng dõi họ bị trừng phạt.”[ii]
3.-
Tàn sát những người thuộc các tôn giáo một cách cực kỳ dã man gọi là
trả thù cho Chúa. Chuyện được sách The Decline And Fall of The Roman
Church ghi lại như sau:
"Vị tướng chỉ huy chiến dịch tiêu
diệt dân tà giáo Albigences tuyên bố: "Bất kể nam hay nữ, già hay trẻ,
chức vụ lớn hay nhỏ, trước lưỡi gươm, họ đều như nhau." Hiệp sĩ ngoan
đạo Ca-tô tên là Roland, khi chỉ huy đạo quân tiêu diệt người Moors
(Hồi Giáo) đã hô lớn khẩu hiệu "Tà giáo là những người xấu xa. Tín đồ
Gia-tô là những người công chính ngay thẳng." Khi tiến tới bao vây kinh
thành Jerusalem, những người lính thập ác trong cuộc chiến Thập Ác Thứ
Nhất hăng say với niềm tin rằng thiên thần đại diện cho Chúa đang chiến
đấu bên cạnh họ. Thành tích của họ là 17 ngàn dân Hồi Giáo bị tàn sát
dưới lưỡi gươm của họ ở ngay nơi đền thờ Solomon và tất những người Do
Thái ở trong các giáo đường đều bị thiêu sống." [iii] .
Và
còn rất nhiều các chuyện khác nữa cũng dã man không khác gì những
chuyện trên đây. Trong Cuốn “Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa
Foundation” (Houston, TX Đa Nguyên, 2004) và trong sách Tâm Thư Gửi
Chính Quyền Việt Nam (Chương 13) có trình bày đầy đủ những chuyện này.
Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.
BH viết: “Em đọc thư thầy Quang nữa nè. Em phát biểu linh tinh nữa nè .
“Cùng
một ý như trên, Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower cũng tuyên bố: “Kẻ thù
của kẻ thù là bạn của chúng ta, và bạn của kẻ thù là kẻ thù của chúng
ta.” Vì quan niệm như vậy, cho nên từ giữa thập niên 1950 cho đến đầu
thập niên 1970, Hoa Kỳ coi miền Nam Việt Nam là tiền đồn chống lại làn
sóng Cộng Sản đang dâng tràn từ phương Bắc và triệt để thi hành chính
sách Chống Cộng. Vì theo đuổi chính sách này mà họ bỏ ra hàng trăm tỉ
Mỹ Kim để nuôi dưỡng chính quyền và quân đội miền Nam làm công cụ phục
vụ cho nhu cầu chiến lược chống Cộng này của họ. Nhưng đến đầu thập
niên 1970, sau khi đã kết thân được với Trung Cộng (trở thành bạn của
Hoa Kỳ), Hoa Kỳ không còn cần sử dụng miền Nam để làm tiền đồn cho nhu
cầu chống Cộng nữa. Cũng vì vậy mà Hoa Kỳ mới quyết định bỏ rơi miền
Nam, và không cần phải bỏ tiền ra nuôi nợ chính quyền và quân đội miền
Nam nữa. Do đó mới có biến cố ngày 30/4/1975.”
“Cám
ơn thầy Quang. Dạ trò hiểu hết đoạn trên đây . Em chỉ thắc mắc mấy
con số ngày tháng năm ở câu cuối : Theo Em, câu đó phải là: Do đó mới
có ngày 27/1/1973.”
BH nói như thế có phần cũng đúng
nếu liên kết Thỏa Hiệp ngày 27/1/1973 với Hiệp Định Geneva 1954. Nhưng
trong thực tế, chiến tranh Việt Nam đã không thể dừng lại ngay sau
ngày Thỏa Hiệp vì đó là cuộc nói chuyện giữa Mỹ và Bắc Việt, chứ đâu
phải giữa Bắc và Nam.
Theo lẽ tất yếu của lịch sử, tất cả
các quốc gia bị lâm vào tình trạng chia đôi thì phải tìm phương cách
thống nhất để đem giang sơn về một mối. Thiết nghĩ cũng cần biết ai đã
cố ý vi phạm điều khoản tổng tuyển cử để thống nhất đất nước đã được
quy định trong Hiệp Định Geneva 1954, biết một chút về Thỏa Hiệp Paris
27/1/1973 và tại sao có ngày 30/4/1975.
Từ Hiệp Định Geneva 1954 đến Thỏa Hiệp Paris 27/1/1973:
Từ
lúc bắt đầu đóng vai đô hộ thay cho Pháp, Mỹ luôn cố gắng tìm một chiếc
áo “chính nghĩa” cho miền Nam bằng cách phối hợp với bộ máy tuyên
truyền của Nhà Thờ Vatican đánh bóng chính quyền Sàigòn và các cựu quan
chức tay sai của Pháp trước đây với những thuật ngữ “chính quyền Quốc Gia”, “người Việt Quốc Gia” chiến đấu cho “chính nghĩa Quốc Gia” và “tự do dân chủ” dưới “ngọn cờ vàng ba sọc đỏ” ,….
Tuy
các khẩu hiệu trên đây vẫn được dùng hằng ngày qua nhiều năm, nhưng vẫn
không đi đến đâu. Trong thực tế, chính quyền miền Nam không có khả
năng tạo ra được chính nghĩa. Điều này đã được chứng minh rải rác ở
trong nhiều tác phẩm của tôi. Một trong những tác phẩm này là quyển
“Chân Dung Người Việt Quốc Gia.” Quyển sách này có thể đọc online trên
sachhiem.net.
Ngay từ thời điểm 1968 (có lẽ vào giữa năm
1967), người Mỹ đã nhìn ra sự thực là không thể nào tạo ra được chính
nghĩa để tiếp tục theo đuổi cuộc chiến. Vì chính quyền miền Nam không
tạo được chính nghĩa và không được lòng dân, cho nên dù có chi viện cho
miền Nam đến hàng ngàn tỉ Mỹ Kim thì cũng chỉ là đem tiền đổ xuống
biển.
Thấy rằng nhân dân thế giới và nhân dân Hoa Kỳ phản đối
và lên án kịch liệt việc Hoa Kỳ theo đuổi chiến tranh Việt Nam, chính
quyền Mỹ thay đổi sách lược bằng cách “Việt Nam Hóa” cuộc chiến này.
Chữ “Việt Nam hóa” do người Mỹ dùng, nghĩa là họ chính thức thừa nhận
đó là cuộc chiến của Mỹ từ trước.
Đồng thời, tình hình thế
giới xoay chuyển, Hoa kỳ nhìn thấy rõ xích mích giữa Liên Sô và Trung
Quốc (đã có từ năm 1964 hay trước đó). Hai yếu tố trên kết hợp với
nhau làm cho họ thay đối chiến lược chống lại Khối Cộng Sản bằng cách
tìm phương kế kết thân với Trung Cộng, rồi tìm cách trút gánh nặng cuộc
chiến Việt Nam cho chính quyền và người dân miền Nam để rút lui qua
chủ đề “Viêt Nam hóa chiến tranh”. Cuối cùng là họ đã thực sự
kết thân được với Trung Cộng vào năm 1972. Chỉ còn việc đẩy mạnh
thương thuyết với chính quyền miền Bắc để đạt được một thỏa hiệp mà cả
hai bên cùng có thể chấp nhận được. Kết quả là Thỏa Hiệp Paris
27/1/1973 ra đời có sự tính tóan này.
Chương trình Việt Nam
hóa được thực hiện bằng cách: Tăng cường quân số miền Nam để thay thế
cho quân đội Mỹ và đồng minh rút lui. Tài trợ cho việc tái tổ chức và
trang bị cho chính quyền và quân đội miền Nam bao gồm cả các đồ thiết
bị, trang bị vũ khí và lương bỗng cho tất cả nhân viên chính quyền và
quân nhân các cấp trong quân đội.
Có hai điều khoản chính
yếu của thỏa hiệp 27/1/1973: (1) Hoa Kỳ sẽ phải rút hết quân ra khỏi
miền Nam, và (2) hai bên trao trả tù binh hiện còn đang giam giữ (hiểu
ngầm là Bắc Việt phải trao trả hết tù binh Hoa Kỳ và các nước đồng
minh của Hoa Kỳ). Có làm được như vậy, thì chính quyền Hoa Kỳ mới không
bị nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân thế giới chống đối. Nếu không làm được
như vậy, thì chính đảng cầm quyền ở Hoa Kỳ sẽ thất bại lớn trong kỳ bầu
cử kế tiếp.
Câu hỏi đặt ra là: Giả sử sau thỏa hiệp
Paris 27/1/1973, Hoa Kỳ rút hết quân lực và cắt đứt kinh viện (không
chi viện tài chánh, tức là không trả lương tháng cho nhân viên chính
quyền và quân đội), nhưng vẫn tiếp tục viện trợ dồi dào vũ khí cho quân
đội miền Nam Việt Nam hơn cả vũ khí mà miền Bắc đã tiếp nhận viện trợ
của Liên Sô và Trung Cộng, liệu chính quyền và quân đội miền Nam có thể
đứng vững và tồn tại được hơn 2 tháng không? Trả lời được câu hỏi này
là đã hiểu được thực chất của chính quyền và quân đội miền Nam trong
những năm 1954-1975.
Có thể nói ngay khi không nhận được tiền
lương từ tháng đầu, quân lính miền Nam sẽ trở thành một thứ Quốc Quân
Trung Hoa ở Hoa Nam (vào những năm 1949-1950), và nhân dân miền Nam
Việt Nam sẽ trở thành nạn nhân khốn khổ của các đạo quân này. Những sự
kiện sau đây có thể chứng minh điều đó.
Thực tế là sau khi Mỹ
Việt Nam hóa chiến tranh năm 1973, Mỹ chỉ rút quân đội về nước, nhưng
vẫn còn tiếp tục viện trợ vũ khí và kinh viện để trả lương cho chính
quyền và quân đội cho đến ngày chót. Nhưng Chính quyền và quân đội miền
Nam đã bắt đầu “mất tinh thần” từ sau hội nghị này; cuối cùng rã ngũ
tan hàng. Trong thời gian này, chính quyền và quân đội miền Nam đã bắt
đầu ở vào tình trạng “Tướng đầu cuốn gói ba quân ngỡ ngàng”. Vì thế, chúng ta không thể bỏ qua khoảng thời gian từ ngày 27/1/1973 cho đến ngày 30/4/1975.
Khoảng
đầu năm 1975, có lẽ vào cuối tháng 2, đã có dấu hiệu cho thấy Quốc Hội
Hoa Kỳ sẽ giảm kinh viện cho tài khóa 1975-1976 xuống mức tối thỉểu vào
khoảng 700 triệu Mỹ Kim, rồi mấy ngày sau đó lại quyết định ngưng luôn
khoản tiền này. Xin đọc bản văn ghi trong sách Khi Đồng Minh Tháo Chạy
của tác giả Nguyễn Tiến Hưng. [iv]
Tin
xấu này làm cho các nhân viên cao cấp trong chính quyền và các tướng tá
nắm giữ các chức vụ chỉ huy trong quân đội miền Nam mất hết tinh thần,
không còn nghĩ đến chiến đấu nữa và tính đường cuốn gói ra đi. Sự kiện
này thể hiện ra trong buổi họp tại Dinh Độc Lập vào ngày 13/3/1975 do
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập và chủ tọa. Buổi họp chuẩn bị đào
tẩu này được Phó Đế Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ghi lại như sau:
“Ngày
13/3/1975, tại dinh Độc Lập tổng thống Thiệu họp với thủ tướng Trần
Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên, trung tướng Đặng Văn Quang, trung
tướng Ngô Quang Trưởng và trung tướng Nguyễn Văn Toàn. Trong buổi họp
này tổng thống Thiệu cũng đã nhận định rằng không cách nào với ngân
khoản viện trợ Hoa Kỳ bị cắt giảm, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có thể
giữ được sự vẹn toàn lãnh thổ miền Nam. Tổng Thống Thiệu lấy viết gạch
một đường từ Ban Mê Thuột xuống Tuy Hòa và nói đó là ranh giới mới của
miền Nam. Tổng Thống Thiệu còn căn dặn tướng Trưởng giữ kín, không tiết
lộ cho các tư lịnh Sư Đoàn, các tỉnh trưởng cũng như Hải Quân và Không
Quân biết việc bỏ miền Trung.”[v]
Sau
cuộc họp lịch sử này, Giám Mục Phạm Ngọc Chi ra lệnh cho Tướng Lâm
Quang Thi đến nói với Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lênh Quân Khu I, bỏ
ngỏ Đà Nẵng. (BH có nhìn ra chế độ thần quyền chỉ đạo thế quyền, và lý do của chữ “liên minh Mỹ-Vatican” chưa?)
Sau đó, các tướng dân Chúa như Tướng Lâm Quang Thi, Chỉ Huy Bộ Tư
Lệnh Tiền Phương của Quân Đòan I, Tướng Hoàng Văn Lạc, Tư Lệnh Phó Quân
Đòan I, Tướng Nguyễn Đăng Khánh, Tư Lệnh Sư Đòan I Không Quân, Tướng Lý
Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đòan 25 (trú đóng tại Củ Chi) bỏ trốn nhiệm sở mà
quân lính dưới quyền không biết gì hết.
Từ khi hai ông
tướng (Lâm Quang Thi và Hoàng văn Lạc) này bỏ đi rồi, Tướng Trưởng như
mất luôn cả hai cánh tay, không còn cựa quậy được gì nữa. Việc này được
coi như nguyên nhân chính gây ra những hậu quả dây chuyền với diễn biến
như sau:
1.- Tướng Trưởng buộc lòng phải cho giải tán Bộ Tham Mưu Quân Đoàn I của ông. [vi] .
2.-
Hậu quả trực tiếp là quân lính theo gương hai ông tướng Lâm Quang Thi
và Hoàng Văn Lạc cũng bỏ đơn vị tìm cách thoát thân. Tình trạng này đã
khiến cho vị tướng tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh là Tướng Nguyễn Văn Điềm
ra lệnh giải tán sư đoàn của ông. [vii]
Tình
trạng rã ngũ tan hàng như trên xẩy ra từ các đơn vị thuộc Quân Đoàn I.
Khởi đầu ở Quảng Trị và Huế, rồi Đà Nẵng, và lan theo hướng Nam tiến
đến Hội An, Nha Trang, Phan rang, Phan Rí, Phan Thiết, Bình Tuy và Xuân
Lộc nhanh như gió thổi. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang trong
Bộ Tham Mưu của Bộ Tư Lệnh Tiền Phuơng Quân Khu III đang trên đường
lên máy bay để tẩu thoát, thì quân đội miền Bắc tóm được. Tướng Lý
Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đoàn 25, vội vã bỏ đơn vị, cởi bỏ vũ khí và quân
trang, chỉ mặc có chiếc quần đùi đang bì bọp lội trốn ở một ruộng lúa,
thì bị dân quân địa phương bắt được. Đại Tá Hà Mai Việt, Tư Lệnh Phó Sư
Đòan 25, đã bỏ đơn vị từ trước và đã cùng toàn thể gia đình lên phi cơ
Mỹ thóat khỏi Sàigòn vào ngày 26/4/1975. Đến sáng ngày 30/4/1975, quân
đội Miền Bắc tiến vào Sàigòn hầu như không gặp một sức kháng cự nào cả.
Nhận xét về những hành động hèn nhát trốn khỏi nhiệm sở và
rời bỏ quân ngũ để tẩu thóat cho mau với hy vọng được yên thân như trên
của các nhân viên cao cấp chính quyền Sàigòn và các tướng tá nắm giữ
những chức vụ chỉ huy trong quân đội miền Nam, ông Vân Xưa (tức cụ Hồ
Sĩ Khuê) viết trong bài đầu hàng với nguyên văn như sau:
“Cho
đến khi không còn hy vọng tiếp tục vơ vét thêm được nữa, tập đoàn này
đã phân tán chạy như một bầy chó đạp phải lửa, hối hả tháo thân cho kịp
trước ngày Sài Gòn sụp đổ. Để lại an hưởng tài sản đã thụ đắc năm này
qua năm khác, lúc cầm quyền trong nước, trên xương, trên máu, của lính,
của dân, mà tiếp tục cuộc sống đế vương ở nước ngoài. Cố nhiên nay ra
nước ngoài, bọn họ thừa tài sản, thừa học thức, thừa bộ hạ tay chân,
thừa phương tiện. Chỉ thiếu có liêm sỉ, nên không ngần ngại sử dụng đủ
mọi thứ mánh khóe, kể cả mánh khóe văn hóa, báo có, sách có, để hài cái
tội đầu hàng của Dương Văn Minh.
Một cách để nói mà
không phải nói là: bọn họ vô tội, không phản bội đất nước, vì không đầu
hàng, như Dương Văn Minh (bởi đã trốn kịp ra nước ngoài). Chỉ Dương
Văn Minh là kẻ đã bán đứng miền Nam cho Cộng Sản.” [viii]
Còn nhiều chi tiết khác nữa. Xin đọc bài Đầu Hàng của Vân Xưa trên sachhiem.net.
Trong
khúc phim ở trên người ta thấy rõ tinh thần chiến đấu của VNCH nằm ở
túi tiền (chứ không phải vũ khí) của Mỹ để trả lương cho nhân viên chính
quyền và quân nhân các cấp trong quân đội miền Nam. Hoàn toàn không
thấy thế nào là chính nghĩa khi mà VNCH thấy “hết tiền” thì “hết vía”
luôn.
Như vậy, nếu nói như BH rằng “Do đó mới có ngày 27/1/1973 ” thì
chỉ đúng với thời điểm trên bàn hội nghị giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ mà
thôi, chứ không nói lên được cái ý nghĩa thực sự của cuộc chiến.
BH viết: “Trong bản Hiệp Định Paris ký ngày 27/1/73, có ghi rõ:
“Nhằm mục đích tái lập hòa bình ở Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân
dân Miền Nam Việt Nam góp phần củng cố hòa bình ở Châu Á và thế giới.“
Thì
để nhân dân Miền Nam Việt Nam tự quyết đi: Tổng Tuyển Cử; hay là nhà
ai nấy ở, hàng rào là cây cầu Hiền Lương ? Như vậy thì đâu có ngày
30/4/75?”
Tôi xin trình bày
như thế này. Cuộc chiến 1954-1975 giống như cuộc chiến Việt Nam
1945-1954 giữa một bên là chính quyền thực dân xâm lược Pháp liên kết
với Nhà Thờ Vatican và một bên là nhân dân Việt Nam dưới quyền lãnh đạo
của chính quyền Kháng Chiến Việt Nam do cụ Hồ Chí Minh lãnh đạo và làm
chủ tịch.
Trong Hội Nghị Geneva 1954, chỉ có phái đòan của
chính phủ Kháng Chiến Việt Minh đàm phán hay thảo luận trực tiếp với
chính quyền Pháp với sự góp ý của các nước tham dự Anh, Nga, Trung
Quốc, Ấn Độ, Ba Lan, v.v… Phái đòan của chính quyền Quốc Gia thời ông
Bảo Đại không có một tiếng nói nào trong các cuộc thảo luận về các điều
khoản trong thỏa hiệp này. Tương tự như thế, trong bàn Hội Nghị Paris
1968-1973, việc bàn thảo mọi điều khỏan trong thỏa hiệp này đều do hai
phái đòan Mỹ và miền Bắc Việt Nam trực tiếp thảo luận với nhau, chứ
chính quyền Nam không có tiếng nói gì hết.
Tưởng cũng cần
nhắc lại những trang đầu lịch sử của các cuộc chiến giữa một bên là hai
liên minh xâm lược trên đây và một bên là nhân dân Việt Nam dưới quyền
các vị anh hùng dân tộc lãnh đạo các lực lượng nghĩa quân của nhân dân
ta. Khi xua quân tấn công Việt Nam vào năm 1858, Liên
Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đã có dã tâm cưỡng chiếm Việt Nam làm
thuộc địa. Ngay từ khi liên quân Pháp – Vatican chiếm được ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ vào năm 1862, thì nhân dân ta (bất kể là có hay không có
lệnh của triều đình Huế) đã vùng lên tổ chức lực lượng võ trang đánh
đuổi quân cướp ngoại thù ra khỏi quê huơng.
Khởi đầu là các
anh hùng nghĩa sĩ ở miền Nam như các cụ Trương Công Định, Nguyễn Trung
Trực, Thủ Khoa Huân, Thiên Hội Dương, rồi lan dần ra miền Trung và miền
Bắc. Ở Trung có các lực lượng của các nhà ái quốc Mai Xuân Thưởng, Phan
Đình Phùng, Đinh Công Tráng. Ở Bắc có các cuộc nổi dậy của cụ Hoàng
Hoa Thám, Trịnh Văn Cấn,… cho đến Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận
Việt Minh. Rõ ràng là giặc tấn công đến đâu, thì ở đó dân ta nổi lên
chiến đấu chống lại và chống liên tục từ năm 1858 cho đến tháng 7 năm
1954. Tất cả đều có một mục đích chung là đánh đuổi giặc ngoại xâm ra
khỏi đất nước để đòi lại toàn thể lãnh thổ Việt cho dân tộc, chứ không
phải chỉ đòi lại có một nửa nước từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc.
Sở
dĩ có tình trạng chia đôi là vì dưới áp lực của ngọai cường quá mạnh,
cho nên chính quyền Kháng Chiến Việt Nam mới tạm chấp nhận Thỏa Hiệp
Genève 1954 với hy vọng đất nước sẽ được thống nhất qua một cuộc tổng
tuyển cử lẽ ra phải được tổ chức vào tháng 7 năm 1956. Vấn đề thống
nhất đất nước qua một cuộc tổng tuyển cử trên toàn thể lãnh thổ Việt
Nam được nói rõ trong điều 7 của bản Tuyên Ngôn Cuối Cùng của Hội Nghị Genève 1954 vào ngày 21/7/1954 (Final Declaration of the Geneva Conference (July 21, 1954). Xin đọc đoạn văn nói về vấn đề này như sau:
“Hội
Nghị tuyên bố rằng, “dựa trên các nguyên tắc tôn trọng các quyền tự do
căn bản về độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, việc
giải quyết vấn đề chính trị tại Việt Nam phải cho phép người dân Việt
Nam được hưởng những quyền tự do căn bản bằng tổ chức một cuộc tổng
tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín trên toàn thể lãnh thổ để thiết
lập các cơ chế (chính quyền) dân chủ cho cả hai miền. Để có thể bảo đảm
rằng việc này có thể tiến hành tốt đẹp trong một nền hòa bình vừa mới
được tái lập, rằng tất cả những điều kiện cần thiết cho việc nói lên ý
chí của nhân dân toàn quốc, cuộc tổng tuyển cử sẽ phải được tổ chức
trên toàn thể lãnh thổ vào tháng 7 năm 1956 dưới sự giám sát của một ủy
hội quốc tế. Ủy hội này gồm có đại diện của các quốc gia thành viên của
Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã được nói trong thỏa hiệp đình
chiến. Mọi sự tham vấn hay thăm dò để tổ chức tổng tuyển cử sẽ được đại
diện của chính quyền của hai miền quyết định.” [ix]
Hiệp
Định Geneva 1954 đã quy định rõ ràng như vây. Thế nhưng, sau khi đã đưa
ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền ở miền Nam Việt Nam, Liên Minh Xâm
Lược Mỹ - Vatian ra lệnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm từ chối, nhất
định không thảo luận với chính quyền miền Bắc về việc tổ chức tổng
tuyền cử để thống nhất như Thỏa Hiệp Genève 1954 đã quy định. Xin xem
tiếp trong phần Ý Chí Thống Nhất Đất Nước của Các Dân Tộc Khi Lãnh Thổ
Bị Qua Phân nơi Chương 81 (Mục XXIII, Phần VI, trong sách Lịch Sử và Hồ
Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã) của tác giả Nguyễn Mạnh Quang. Chương
sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.
Ngô Đình Diệm không ký vào Tuyên Ngôn Cuối Cùng của Hiệp Định Geneva 1954 vì không có chính danh và cũng không có tư cách pháp lý nào cả. Ông Diệm chỉ là lá bài gian lận của Mỹ và Vatican bất ngờ đưa ra, thay thế lá bài bị cháy Bảo Đại của Pháp.
Mỹ và Diệm không phải là thế lực đối đầu với Việt Minh vào lúc đó, mà
hai thế lực chính là Pháp và chính quyền Việt Nam dưới quyền lãnh đạo
của Việt Minh. Diệm nương theo thế lực của Mỹ và không chịu Tổng Tuyển
Cử vì Mỹ tin chắc rằng Diệm sẽ thua.
- Chính Tổng Thống Mỹ Eisenhower lúc đó cũng công nhận như thế. Xin đọc "Context of 'July 1956: South Vietnamese President Blocks Unifying Elections'"
And US President Dwight Eisenhower admits, “I
have never talked or corresponded with a person knowledgeable in
Indochinese affairs who did not agree that had elections been held as of
the time of the fighting, a possible 80 per cent of the population
would have voted for the communist Ho Chi Minh as their leader.” [EISENHOWER, 1994, PP. 372]
Nhiều người Mỹ cũng biểu tình phản đối ông Diệm. Biểu ngữ ở trên ghi: "Chuyện gì xảy ra cho Tổng Tuyển Cử ở Việt Nam? Chỉ là vì: " rồi dẫn lời của Tổng thống Hoa Kỳ Dwight Eisenhower: "Nếu bầu cử được tổ chức vào thời điểm giao tranh hồi năm 1954 thì 80% dân số đã bỏ phiếu cho lãnh đạo cộng sản HCM." Câu chót: "Tổng Tuyển Cử bị đình hoãn do Diệm, bù nhìn của Hoa Kỳ. Tự do đâu, thưa ông Johnson?" Lúc đó, Johnson là Tổng Thống Hoa Kỳ. Ảnh http://baomai.blogspot.com/
- Ngoài ra, Giáo sư Mortimer T. Cohen đã châm biếm trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam , xuất bản năm 1979, trang 227 như sau:
“Nhưng Eisenhower biết rằng trong một cuộc bầu cử tự do, 80% dân
chúng sẽ bầu cho Hồ Chí Minh thay vì Bảo Đại. Diệm có khá gì hơn Bảo Đại
không? Làm sao mà khá hơn? Không một người nào ở Việt Nam có thể thắng
Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng Tuyển Cử tự do. Ông ta là George Washington
của nước Việt Nam. Giáo sư Brown gọi ông ta là một kẻ “phản bội”, nhưng
trong 15 năm, từ 1954 đến khi ông ta chết vào tháng 9/1969, cái tên phản
bội này sẽ thắng bất cứ ứng cử viên nào khác. Các ông không thể đánh
bại một người có tên tuổi bằng một người không tên tuổi... Lý do Diệm
không muốn có cuộc Tổng Tuyển Cử là vì ông ta nghĩ rằng mình sẽ
thua...” [trong bài "Luận Điệu Phi Dân Tộc của Kẻ Phản Dân Tộc" (Trần Chung Ngọc) ]
Trong những năm 1954-1956 (trong thời kỳ chờ đợi tổng tuyển cử thống
nhất đất nước) trên danh nghĩa, chính quyền miền Nam kiểm soát gần như
toàn bộ dân số miền Nam. Nhưng từ cuối năm 1956 trở về sau, hầu hết
người dân miền Nam đều bất mãn với chính quyền miền Nam ngoại trừ nhóm
thiểu số: dân Chúa, nhóm thiểu số cựu quan lại thời Pháp thuộc, nhóm
thiểu số phú hào và nhóm thị dân tiểu tư sản (phần lớn sống trong các
thành phố và các trại định cư của người Bắc Kỳ 1954). Có 3 lý do: (1)
chính quyền này do Hoa Kỳ và Vatican dựng nên, tức là không có chính
nghĩa, (2) những thành phần lãnh đạo vốn là những người đã từng là Việt
gian cộng tác với Liên Minh Pháp – Vatican, được Liên Minh Mỹ - Vatican
đưa lên cầm quyền để phục vụ cho quyền lợi của Mỹ và Vatican, (3) bất
tài, kém đức và tham nhũng.
Từ năm 1960, con số dân miền Nam
nằm trong vùng kiểm soát của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (tức là miền
Bắc) càng ngày càng nhiều hơn. Tình trạng này càng rõ rệt hơn kể từ
đầu năm 1968 trở về sau. Kể từ đó, có tới hơn 50% dân miền Nam nằm
trong vùng do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam kiểm soát. Còn lại 50% dân số
ở miền Nam do chính quyền Sàigòn kiểm soát, nhưng con số phần trăm này
cũng chỉ là trên danh nghĩa mà thôi.
Trong thực tế, ngay cả
những người làm việc cho chính quyền miền Nam hay cho sở Mỹ ở miền
Nam, cũng có rất nhiều người hoặc là có cảm tình với miền Bắc hay Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam, hoặc bí mật phục vụ hay làm việc cho chính
quyền miền Bắc. Đây là trường hợp của những người như các ông Phạm Ngọc
Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh Văn Trọng, Chuẩn Tướng Nguyễn
Hữu Hạnh. Cũng nên biết ông Nguyễn Trung Hiếu là người làm thông ngôn
cho vị sĩ quan CIA tên là Frederic Whitehurst, nên bây giờ người ta mới
được đọc hai cuốn nhật ký của nữ bác sĩ quân y Đặng Thùy Trâm của quân
đội miền Bắc. Phần còn lại là dân nghèo lao động, tiểu công nghệ,
tiểu thương buôn thúng bán bưng, trong đó có nhiều người như phu đạp
xích lô, tài xế xe taxi, công nhân lao động tại các nhà máy, v.v…. Phần
lớn những người này hoặc là bí mật hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam hoặc là bí mật ủng hộ hay có cảm tình với miền Bắc.
Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu 2 chi tiết liên hệ đến việc thắng hay bại cho miền Nam nếu có tổng tuyển cử.
1.-
Lãnh thổ miền Nam do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (tức miền Bắc) kiểm
soát: Theo bản tham luận của đài BBC loan báo trong những ngày
6-12-23/4/ 2005 (được báo điện tử ww.dongduong thoibao.com đăng lại)
thì ngay từ mùa đông năm 1964-1965, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã
kiểm soát được 80% dân chúng ở miền Nam:
“Mùa đông
1964-1965, tình hình chính trị ở Sài Gòn đã đến điểm hỗn độn khi các
chính thể liên tiếp thay đổi. Ở nông thôn, lực lượng Việt Cộng tận dụng
sự lộn xộn và thực thi chiến thuật chủ động hơn. Theo đánh giá của
tình báo Mỹ lúc này, Măt trận giả̉i phóng dân tôc miề̀n Nam kiểm soát
80% tổng số đất đai ở miên Nam.” BBC ngày 6-12-23/4/2005.[x]
2.-
Về con số nhân dân miền Nam ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam: Xin
đọc bản văn do nhà biên khảo lịch sử Stanley I. Kutler ghi nhận cho
chúng ta thấy rõ thực trạng này. Chú thích ([xi]) ở dưới.
Tóm
lại, trong cuộc chiến thống nhất 1954-1975, miền Bắc được sự ủng hộ của
tuyệt đại đa số (90%) nhân dân ta. Còn lại thiểu số thuộc các thành
phần đã đề cập ở trên.
Như vậy, về các yếu tố lãnh thổ và
được lòng dân, miền Bắc có lợi thế hơn miền Nam rất nhiều. Nếu tổ chức
bầu cử vào bất cứ thời điểm nào trong thời gian 1954-1975, miền Bắc
chắc chắn là thắng cử. Đây là lý do TẠI SAO, Hoa Kỳ và Nhà Thờ Vatican
đã xúi giục chính quyền Ngô Đình Diệm (1954-1963) từ chối, không chịu
ngồi họp bàn vơi chính quyền miền Bắc để tổ chức tổng tuyển cử thống
nhất đất nước.
Vì chính quyền miền Nam từ chối tổng tuyển
cử, cho nên chính quyền miền Bắc mới phát động chiến tranh để đòi lại
miền Nam, đem giang san về một mối.
Đã phải chiến đấu ròng rã
gần 20 năm trời mới tống cổ được quân xâm lược Mỹ ra khỏi miền Nam,
chẳng lẽ miền Bắ'c lại còn chờ tổ chức tổng tuyển cử nữa hay sao? Trong
lịch sử chiến tranh trên thế giới từ cổ chí kim, có nơi nào phe thắng
lại dừng lại để tổ chức tổng tuyển cử để cho phe dựa vào thế lực ngoại
bang gây hấn và chiến bại có cơ may nhẩy lên nắm chính quyền không?
Huống chi, nếu làm như vậy, thì có phải là bất công và vong ơn đối với
toàn thể nhân dân Việt Nam đã hy sinh tiền của, công lao, xương máu cho
cuộc chiến, và đặc biệt là đối với hàng triệu người con thân thương
của tổ quốc đã bỏ mình trong cuộc chiến trường kỳ vô cùng cam go để đem
lại thắng lợi và vinh quang cho dân tộc hay không?
Nêu lên những sự kiện trên chỉ là làm sáng tỏ vấn đề mà thôi. Trong
suốt thời gian tử năm 1954 cho đến khi chiến tranh chấm dứt, chính
quyền miền Nam không hề đề nghị tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.
Như đã trình bày ở trên, vấn đê tổng tuyển cử để thống nhất đã được
miền Bắc chủ động tích cực đề nghị và khẩn khỏan yêu cầu chính quyền
miền Nam ròng rã cả hai năm 1955 và 1956. Thỏa Hiệp 27/1/1973 hoàn tòan
là sự giàn xếp bằng những thuật ngữ của chính quyền Hoa Kỳ và chính
quyền miền Bắc để chấm dứt cuộc chiến sao cho cả hai cùng có lợi. Trong
việc giàn xếp này, chính quyền miền Nam và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
chỉ đóng vai trò ngồi chơi xơi nước, chứ đâu có được góp tiếng nói
vào việc thảo luận hay bàn cãi gì ở trong bàn Hội Nghi Paris!
Tiên
trách kỷ hậu trách nhân. Nếu chúng ta có trách, thì phải trách TẠI SAO
ngày xưa (1950-1954) ông Ngô Đình Diệm phải cậy cục Nhà Thờ Vatican dẫn
đi trình diện các chính khách có thế lực trên sân khấu chính trị Hoa
Kỳ để năn nỉ, lạy lục và phải thế thốt với họ rằng tôi: “tin tưởng vào quyền lực của Vatican và chống Cộng một cách tích cực.” Có thề thốt như vậy thì mới được họ đưa lên cầm quyền.[xii]
Xin xem thêm các Chương 60, 61, 62 và 63 (Mục XVIII, Phần VI) trong
sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Các chương sách này có
thể đọc online trên sachhiem.net.
Thiết nghĩ thư đã khá dài,
sợ rằng viết thêm nữa sẽ làm một số quí vị phiền giận vì những sự thật
lịch sử quá phũ phàng. Tôi xin tạm ngưng ở đây và thành thật xin lỗi
nếu những điều tôi nói có vô tình đụng chạm đến bạn nào trong chúng ta,
thì đó là điều ngoài ý muốn của tôi.
Thân chúc quý vị thân tâm thường lạc.
Thân mến
Nguyễn Mạnh Quang
Chú thích
[i] Malachi Martin, The Decline And Fall Of The Roman Church (New York: G.P. Putnam's Sons, 1981), tr. 121-122.
[ii] Trần Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Ðấy! (Westminster, California: Đồng Thanh & Văn Nghệ, 1996), tr.132-133.
[iii] Malachi Martin, Ibid, tr.111
[iv] Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Tháo Cháy (San Jose, CA: Hứa Chấn Minh, 2005), tr 222-223.
[v] Hồ Văn Kỳ Thoại, Can Trường Trong Chiến Bại (Falls Church, VA: TXB, 2007) tr. 183.
[vi] Hồ Văn Kỳ Thoại, Sđd., tr. 284
[vii] Hồ Văn Kỳ Thoại, Sđd., tr. 268.
[viii] Vân Xưa. “Đầu Hàng” sachhiem.net. Ngay 30/5/2009.
[ix] Marvin E. Gettlemen, Vietnam: History, Documents, And Opinions On A Major World Crisis (New York: Fawcett Publications, Inc., 1965), pp. 152-153.
[x] “Những Sự Kiện Lịch Sự Đạii Thắng Mùa Xuân 1975” www.dongduongthoibao.net Ngay 23/5/2006.
[xi] Stanly I. Kutler (ed.) Encyclopedia of the Vietnam War (New York: Simon & Schuster Mcmillan, 1996), p. 592.
“Tháng
4 năm 1967, người điều khiển chương trình bình định là ông Robert
Komer chính thức gọi chương trình này là “Cuộc Chiến Khác: Cuộc Chiến
Chiếm Lòng Dân” và đề nghị Hoa Kỷ phải đẩy mạnh chương trình tỵ nạn
nhằm để phá tan cơ sở tuyển mộ của Việt Cộng. Trong thực tế, vào
khoảng đầu năm 1967, có vào khoảng 40 ngàn “cán bộ bình định”, trong
đó vào khoảng 10% là quân lính Hoa Kỳ và 90% là quân lính chính quy
của miền Nam đã được sử dụng toàn phần vào chương trình bình định
này. Công việc của chương trình này bao gồm cả việc triệt hạ các làng
xóm trong các vùng nông thôn, đem những người dân quê ở các làng bị
triệt hạ này vào định cư trong các “Ấp Tân Sinh” để bảo đảm an ninh cho
họ. Việc làm của chương trình này đã làm cho người dân bất mãn rồi
chống đối mạnh mẽ. Vì bị chống đối mạnh mẽ, cho nên vào giữa năm
1967, những dữ kiện do cơ quan USOM thâu thập được cho thấy chỉ có
168 Ấp Tân Sinh trong tổng số 12,537 ấp ở miền Nam Việt Nam nằm dưới
quyền kiểm soát của chính phủ (Sàigòn), 3,978 ấp nằm trong tay kiểm
soát của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Số ấp còn lại được ghi nhận
như là những ấp nằm trong sự giằng co giữa hai phe.
Những
ấp nằm trong sự giằng co như vậy được người Hoa Kỳ gọi là “vùng da
beo”, phần lớn người Việt Nam gọi là “vùng xôi đậu” và những người
cách mạng miền Nam gọi là “vùng cái lược”. Thương thường vào ban
ngày, quân đội miền Nam đảm nhiệm các cuộc hành quân trong những vùng
này để mở rộng vùng đất kiểm soát. Việc làm này quá rõ ràng. Lính an
ninh và nhân dân tự vệ được đưa đến thiết lập đồn bót ở trong các
làng ấp để bảo vệ an ninh cho dân cư. Các làng hay ấp nầy đều được
rào bằng hàng rào giây thép gai có hào cắm cọc nhọn bao chung quanh
để ngăn chặn, phòng ngừa cộng sản xâm nhâp và khủng bố. Tiếp theo là
các đoàn “cán bộ bình định” đến phát thuốc, vật liệu xây cất, tiền
trợ giúp để cho người dân trong ấp cảm thấy họ thực sự có một cuộc
sống mới. Như vậy, rõ ràng là một số làng hay ấp do chính quyền miền Nam
thiết lập nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền miền Nam.
Thế
nhưng, thấy vậy mà không phải vậy. Trong thực tế, chính quyền chỉ
kiểm soát được những làng và ấp này vào ban ngày mà thôi; ban đêm, Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam nắm quyền kiểm soát vì rằng về phương diện
chính trị, người dân trong làng hay trong ấp ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam. Dân trong làng hay trong ấp đã được tổ chức thành những tổ
chức bí mật hay bán công khai và những cán bộ cách mạng đã xâm nhập
vào các cấp trong các cơ quan hành chánh và trong quân đội ở trong
những làng ấp này. Trong khi các ông xã trưởng và viên chức khác lãnh
lương hàng tháng của chính quyền, họ lại thi hành những mệnh lệnh
của bên cách mạng. Đáng kể nhất là trong bản phân tích thành quả
chương trình bình định toàn niên 1967, Cơ Quan Thẩm Định Ấp Tân Sinh
của Hoa Kỳ công nhận rằng phần lớn các vùng nông thôn nằm dưới quyền
quản trị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.”
[xii] Lê Hữu Dản, Sự Thật - Ðặc San Xuân Ðinh Sửu 1997 (Fremont, CA: TXB, 1997), tr. 23.
No comments:
Post a Comment