Mõ Làng: Nhân
chuyện lùm xùm "Lò đào tạo tiến sĩ", nói cho khách quan ý kiến ấy cũng
cần có sự xem xét lại cho nghiêm túc. Hãy hình dung, một năm, một đơn vị
đào tạo cho ra lò 350 tiến sĩ, nhân với ngót mấy trăm cơ sở như thế
đang đào tạo tiến sĩ khắp cả nước thì sẽ thế nào? Bài viết sau đây của
Trần Văn Thọ đã vạch ra một số nhận thức sai lầm về bằng tiến sĩ:
1)
Bằng tiến sĩ không phải nhằm đào tạo nhà quản lý hoặc lãnh đạo để cho
phép nhà nước cấp kinh phí đi học tại chức lấy bằng tiến sĩ; bằng tiến
sĩ là bước cơ bản nhằm đào tạo đội ngũ khoa học có trình độ cao để phục
vụ giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học;
2)
Nghiên cứu sinh (NCS) không cần phải có đề tài mới để được nhận vào
chương trình tiến sĩ, nhưng NCS phải có đủ trình độ để từ quá trình học,
nắm được phát triển lý thuyết cơ bản và kiểm chứng lý thuyết bằng thực
tiễn trong ngành trên thế giới, từ đó biết được vấn đề gì đã được nghiên
cứu và cái gì chưa được giải đáp và từ đó có đóng góp mới về mặt học
thuật.
3)
Luận án tiến sĩ không nhằm nghiên cứu một vấn đề thực tiễn áp dụng ngay
cho việc phát triển xã hội, kinh tế như làm sao thu hút đầu tư nước
ngoài, hoặc làm sao một địa phương có thể trồng lúa ba vụ; luận án tiến
sĩ phải có tính học thuật (academic), triển khai bằng ngôn ngữ khoa học,
bằng những khung lý luận cơ bản trong ngành và gói ghém có phê phán tất
cả các lý luận, các kết quả mà các công trình nghiên cứu trước đã đạt
được liên quan đến đề tài của mình; quan trọng nhất luận án phải có tính
độc sáng (originality), đặt ra được những vấn đề mới, đưa ra được những
giả thuyết hay lý luận mới và kiểm chứng bằng những tư liệu mới.
Từ
những nhận định trên bài viết bàn về yêu cầu thẩm định lại trình độ của
giáo sư hướng dẫn, và các trường, viện đào tạo hiện nay, chấm dứt ngay
những cơ sở không có tư cách cấp bằng.
Một
trong những căn bệnh trầm trọng mà chế độ giao dục đào tạo của Việt Nam
trong mấy mươi năm qua gây ra cho xã hội ta là làm lạm phát văn bằng
tiến sĩ, là đưa chuẩn mực của học vị cao nhất trong khoa học nầy xuống
mức thấp ngoài sự tưởng tượng của người làm khoa học nghiêm túc.
Gần
đây nhà nước có vẻ đã thấy không thể không hành động trước tình trạng
đã quá trầm trọng. Bộ GD ĐT đã ban hành Qui chế đào tạo tiến sĩ. Đây là
lần đầu tiên vấn đề đào tạo tiến sĩ được đặt ra tương đối nghiêm túc.
Tuy nhiên nội dung Quy chế còn nhiều điểm bất cập. Dưới đây tôi chỉ nêu
lại một số vấn đề xét thấy cần đặt lại hoặc viết thêm ở thời điểm hiện
nay:
Mục tiêu đào tạo tiến sĩ là gì?
Thế nào là một luận án tiến sĩ?
Tiêu chuẩn của giáo sư hướng dẫn và cơ sở đào tạo tiến sĩ.
Việc đánh giá và cấp bằng tiến sĩ nên làm như thế nào?
Mục tiêu đào tạo tiến sĩ là gì?
Trong
kế hoạch đào tạo 20.000 tiến sĩ (đến năm 2020), suy nghĩ của người làm
kế hoạch khá đơn giản và không thực tế. Ngoài tính bất khả thi, ta thấy
nhà nước có suy nghĩ rất đơn giản: để phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá cần phải có một đội ngũ những nhà khoa học, cụ thể là đội
ngũ của nhũng người có học vị tiến sĩ. Không biết từ bao giờ đã có một
quan niệm sai lầm rằng bất cứ người làm trong ngành nào, kể cả quan chức
và những nhà lãnh đạo doanh nghiệp, người có học vị càng cao càng “lãnh
đạo” giỏi!. Do quan niệm sai lầm nầy, nhà nước đã cấp kinh phí cho quan
chức đi học (làm nghiên cứu sinh) tại chức để lấy bằng tiến sĩ, và xem
văn bằng nầy là một trong những tiêu chuẩn để đề bạt lên chức vụ cao
hơn. Do vậy quan chức tranh nhau đi học để lấy bằng và nạn học giả lấy
bằng thật trở thành phổ biến. Quan điểm và chính sách nầy đã làm lãng
phí nguồn lực xã hội và gây ra nạn lạm phát văn bằng tiến sĩ. Quan niệm
sai lầm và chính sách chạy theo số lượng trong khi các tiền đề xây dựng
cơ sở đào tạo chưa được xác lập đã hạ thấp (một cách kinh khủng) chuẩn
mực văn bằng tiến sĩ là hệ quả đương nhiên.
Do
đó hơn bao giờ hết cần xác định mục tiêu đào tạo tiến sĩ. Đó là tạo ra
một đội ngũ khoa học có trình độ cao để phục vụ giáo dục đại học và
nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học có thể được thực hiện ở đại học
hoặc các viện nghiên cứu của cơ quan nhà nước hoặc của doanh nghiệp
(nhất là nghiên cứu ứng dụng), nhưng người thuần tuý quản lý doanh
nghiệp hoặc quản lý hành chánh không cần văn bằng tiến sĩ. Dĩ nhiên có
trường hợp một số quan chức hoặc lãnh đạo doanh nghiệp có bằng tiến sĩ.
Đó là trường hợp những người nguyên đã có dự định theo con đường nghiên
cứu hoặc giảng dạy ở đại học nhưng sau đó tìm thấy khả năng của mình ở
lãnh vực quản lý doanh nghiệp hoặc nhà nước. Cũng có trường hợp họ không
thành công trong dự định ban đầu. Ở Nhật hay ở Mỹ người có bằng tiến sĩ
khó tìm việc ở cơ qụan hành chánh nhà nước hoặc doanh nghiiệp hơn là
người chỉ có bằng đại học (dĩ nhiên trừ truờng hợp xin vào các viện
nghiên cứu của doanh nghiệp hoặc của nhà nước).
Thế nào là một luận án tiến sĩ?
Một lãnh đạo Bộ GD-ĐT có nói một câu được báo chí nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Nếu không tìm được vấn đề gì mới thì đừng đi học tiến sĩ”.
Tôi ghi nhận chủ ý tích cực của câu nói nầy. Bối cảnh của ý kiến nầy là
tình trạng có nhiều luận án tiến sĩ chỉ là sự sao chép hoặc tổng kết
các nghiên cứu của người khác và cần phải chấm dứt tình trạng nầy. Nhưng
câu nói nầy khó hiểu đối với người làm khoa học, nhất là đối với người
phụ trách đào tạo tiến sĩ nghiêm túc. Ta có thể đặt lại vài câu hỏi sau:
Thứ nhất, một người định thi vào bậc tiến sĩ (thi làm nghiên cứu sinh)
có cần phải có sẵn một đề tài mới? Hay là đề tài mới chỉ được phát hiện
trong quá trình học tập vất vả, phải biết vấn đề gì đã được nghiên cứu
và cái gì chưa được giải đáp? Thứ hai, thế nào là “mới”? Có thể là mới
trong một thực tiễn nào đó nhưng chẳng có ý nghĩa gì đối với khoa học.
Chẳng hạn, làm sao để huy động vốn trong dân ở tỉnh A hay tại một thành
phố B có thể là mới vì chưa ai nghiên cứu vấn đề cụ thể nầy nhưng đề tài
tự nó chưa nêu ra được điểm gì mới về học thuật. Cần nói thêm là các đề
tài luận án tiến sĩ kinh tế trong hơn 10 năm qua ở VN phần lớn đều có
tính cách thưc tiễn và thiếu tính học thuật như vậy.
Vậy
trình độ của người được cấp bằng và chuẩn mực khách quan của luận án
tiến sĩ là gì? Tiến sĩ là học vị cao nhất trong khoa học. Người được cấp
bằng tiến sĩ do đó phải am hiểu các lý luận cơ bản, các khung phân tích
trong ngành mình và nắm vững các khái niệm, các khung phân tích, các lý
luận và những tiến triển nghiên cứu mới trong ngành chuyên môn hẹp của
mình. Những kiế n thức cơ bản nầy được trang bị từ các cấp bậc đại hoc
và thạc sĩ nhưng ở bậc tiến sĩ phải được tiếp tuc ở trình độ cao hơn và
nhất là phải có cơ chế kiểm tra nghiêm túc để bảo đảm cho ứng cử viên
học vị nầy hội đủ các điều kiện đó.
Trình
độ của ứng cử viên tiến sĩ được thử thách và được nhân lên trong quá
trình nghiên cứu để hoàn thành luận án tiến sĩ. Ngoài tính khoa học,
logic tất nhiên phải có, một luận án tiến sĩ phải có hai tính chất quan
trọng. Thứ nhất là tính học thuật (academic) trong đó vấn đề phải được
triển khai bằng ngôn ngữ khoa học, bằng những khung lý luận cơ bản trong
ngành và gói ghém có phê phán tất cả các lý luận, các kết quả mà các
công trình nghiên cứu trước đã đạt được liên quan đến đề tài của mình.
Thứ hai là tính độc sáng (originality), luận án phải đặt ra được những
vấn đề mới, đưa ra được những giả thuyết hay lý luận mới và kiểm chứng
bằng những tư liệu mới. Cái “mới” trong khoa học là như vậy.
Cần
nói thêm rằng đòi hỏi chính của luận án tiến sĩ là sự đóng góp về mặt
lý luận và luận án là bằng chứng cho thấy ứng cử viên tiến sĩ có trình
độ nghiên cứu độc lập, chứ không đòi hỏi phải giải quyết một vấn đề thực
tế (dĩ nhiên nếu kết quả nghiên cứu góp phần giải quyết một vấn đề thực
tiễn thì càng tốt nhưng đó là thứ yếu). Sau khi lấy bằng tiến sĩ, tuỳ
theo nhu cầu công tác lúc đó mới cần nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn
đề thực tiễn. Tại Việt Nam, chí ít là trong lãnh vực kinh tế, hình như
đa số hiểu sai về ý nghĩa của luận án tiến sĩ. Các đề tài của một luận
án tiến sĩ kinh tế học ở Việt Nam thường là "Những giải pháp để…”
(chẳng hạn, những giải pháp để thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ chiến
lược công nghiệp hoá, v.v..). Những vấn đề nầy dĩ nhiên có thể được chọn
là đối tượng nghiên cứu nhưng đó chỉ là trường hợp được chọn để kiểm
chứng một vần đề có tính cách lý luận chứ không phải nhằm để giải quyết
một vấn đề thực tế. Ở Việt Nam, được biết nhiều đề tài cấp nhà nước, cấp
bộ tốn hàng tỉ đồng và huy động hàng chục nhà nghiên cứu nhưng ít có
công trình trực tiếp giải quyết vấn đề thực tiễn mà tại sao lại kỳ vọng ở
công trình của một nghiên cứu sinh? Các đề tài này chẳng nêu ra được
những câu hỏi có tính lý luận nên chẳng có giá trị về mặt học thuật, và
về mặt thực tế cũng chẳng thấy cơ quan nào của nhà nước đã tham khảo các
luận án ấy. Thật ra một người tốt nghiệp đại học thuộc loại giỏi chỉ
cần vài tháng là có thể hòan thành một bản báo cáo về những đề tài như
vậy. Trong thời gian qua ở nước ta các bản báo cáo như vậy vẫn được gọi
là luận án tiến sĩ. Chất lượng tiến sĩ ở Việt Nam quá thấp là vì vậy.
Cũng
do quan niệm sai lầm ở Việt Nam về việc “ép” nghiên cứu sinh phải chọn
một đề tài về mới về thực tiễn (dù không có giá trị về học thuật) mà
trong quá khứ một số đề tài liên quan đến an ninh, quốc phòng, được phép
bảo vệ không công khai. Bản Dự thảo nói trên cũng có quy định về những
trường hợp không công khai việc bảo vệ luận án tiến sĩ. Theo tôi, mọi
luận án tiến sĩ đều phải được công khai. Nếu vì an ninh hoặc quốc phòng
thì không cho nghiên cứu sinh chọn những đề tài như vậy. Nói chính xác
hơn, nghiên cứu sinh nếu không tiếp cận được các tài liệu thuộc lọai bí
mật quốc gia thì họ phải tránh chọn các đề tài mà việc kiểm chứng cần
các tài liệu đó. Như đã nói ở trên, mục tiêu đào tạo tiến sĩ là xây dựng
những con người khoa học có trình độ nghiên cứu độc lập và đảm trách
việc giáo dục đại học chứ không phải là nhằm nghiên cứu một vấn đề thực
tiễn áp dụng ngay cho việc phát triển xã hội, kinh tế hay an ninh, quốc
phòng. Những đề tài thực tiễn và cấp thiết như vậy thì nên giao cho
người đã có khả năng nghiên cứu độc lập, kể cả người đã lấy bằng tiến
sĩ.
Về giáo sư hướng dẫn và cơ sở đào tạo tiến sĩ
Với
bối cảnh hỗn loạn, vàng thau lẫn lộn, về học hàm học vị trong thời gian
qua, những tiêu chí cứng để định tư cách của giáo sư hướng dẫn (số công
trình nghiên cứu, kinh nghiệm hướng dẫn nghiên cứu sinh, v..v..) hoặc
tư cách của cơ sở đào tạo (số người có học hàm giáo sư hoặc phó giáo sư,
số người có học vị tiến sĩ,…) có lẽ không hoàn toàn thích hợp. Tốt nhất
là nhà nước thành lập các ban thẩm định chuyên ngành gồm những nhà khoa
học có thành tích nổi bật (mà xã hội đã biết đến), những nhà nghiên cứu
đã lấy bằng tiến sĩ tại các đại học có uy tín ở nước ngoài, hoặc nhũng
trí thức người Việt đã có kinh nghiệm hoặc đang hướng dẫn nghiên cứu
sinh tiến sĩ ở nước ngoài. Các ban nầy sẽ đánh giá tư cách tham gia đào
tạo tiến sĩ của những giáo sư hoặc phó giáo sư trong danh mục những
người có nguyện vọng, và đánh giá tư cách tham gia đào tạo của các viện
nghiên cứu hoặc các khoa ở đại học.
Những
cơ sở đào tạo tiến sĩ đã có cũng phải được thẩm định trở lại. Trước mắt
tạm ngừng các chương trình đào tạo tiến sĩ tại các viện, các trường này
cho đến khi có kết quả thẩm định nói trên.
Sau
chừng nửa năm hoặc một năm hoạt động, các hội đồng thẩm định công bố
danh sách các trường, các viện và tên các giáo sư đã qua thẩm định và
được thừa nhận có tư cách đào tạo tiến sĩ. Những nghiên cứu sinh đã được
nhận vào các viện, các trường không đủ tư cách đào tạo tiến sĩ phải thi
lại vào các viện, các trường có tư cách đó. Ngoài ra, cần khuyến khích
những “tiến sĩ” đã lấy bằng tại các cơ sở không đủ tiêu chuẩn mạnh dạn
xin bảo vệ lại tại những viện, những truờng có đủ tiêu chuẩn đào tạo.
Cơ chế và phương pháp đánh giá luận án tiến sĩ
Khi
các vấn đề về chuẩn mực của luận án, về cơ chế nghiên cứu học tập của
sinh viên và về tư cách giáo sư hướng dẫn được giải quyết đúng đắn thì
việc đánh giá luận án không còn là vấn đề khó khăn. Hơn nữa, giáo sư
hướng dẫn là người chịu trách nhiệm đầu tiên về việc đánh giá. Không một
giáo sư chân chính nào thấy luận án của học trò mình chưa đạt tiêu
chuẩn khách quan về học thuật và độc sáng mà dám đưa ra hội đồng bảo vệ.
Có thể còn nhiều dư địa để cải thiện hơn nữa mà giáo sư hướng dẫn không
thấy hết nhưng ít nhất 2 tiêu chí nói trên của luận án tiến sĩ được xem
là đạt rồi mới cho bảo vệ. Trên cơ sở đó, các giáo sư khác trong hội
đồng, cũng trên uy tín của mình, phải đánh giá thẳng thắn. Ở đây không
cần bảo vệ kín mà vẫn giữ được sự khách quan là vì vậy. Cần nói thêm nữa
là trong quá trình chuẩn bị luận án, nên để nghiên cứu sinh được báo
cáo trước hội đồng chấm luận án một hoặc hai lần trước khi bảo vệ cuối
cùng ít nhất là một năm để nhận các ý kiến hướng dẫn cho giai đoạn tới
Ngoài
ra, để bảo đảm tối đa sự khách quan của việc đánh giá, ở Nhật đặt cơ
chế xã hội hoá việc đánh giá trước khi cho nghiên cứu sinh bảo vệ. Có
hai hình thức xã hội hoá. Một là để được bảo vệ cuối cùng, nghiên cứu
sinh phải có ít nhất từ một đến ba (tuỳ trường đại học) công trình liên
quan đến luận án đăng ở các tạp chí có thẩm định độc lập (referee). Tạp
chí có thẩm định độc lập là tạp chí khi ban biên tập nhận bài xin gửi
đăng sẽ gửi bài đó (sau khi che giấu tên người viết) đến ít nhất 2 nhà
nghiên cứu cùng ngành để nhờ thẩm định. Tên tuổi của những người thẩm
định dĩ nhiên không được công bố. Người thẩm định sẽ dựa trên tiêu chuẩn
học thuật và tính độc sáng của bài viết khi đưa ra quyết định đăng hay
không. Hai là, cho nghiên cứu sinh báo cáo trước đại hội toàn quốc hằng
năm của ngành chuyên môn. Ở Nhật nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ có thể trở
thành thành viên của các hội khoa học. Để được báo cáo, nội dung tóm tắt
của luận án phải được thông qua ở ban tổ chức đại hội. Điều quan trọng
là trước mặt các nhà khoa học trên toàn quốc, luận án của học trò mình
bị chê là không độc sáng hoặc thiếu sót lớn về mặt khoa học thì người
chịu tai tiếng đầu tiên là giáo sư hướng dẫn.
Việc
tuyển chọn nghiên cứu sinh có thể linh hoạt nhưng phải có cơ chế kiểm
tra năng lực. Ở Nhật nhiều đại học chú trọng kiểm tra đầu vào qua kỳ thi
ngoại ngữ và chuyên môn và quy định phải lấy đủ các tín chỉ cần thiết.
Có đại học, nhất là những nơi có khoa tổng hợp nhiều ngành, thì chú
trọng thi ngoại ngữ và đánh giá luận án thạc sĩ thay cho kiểm tra năng
lực chuyên môn. Nhiều đại học ở Mỹ thì dễ dãi đầu vào nhưng có chế độ
kiểm tra gay gắt về chuyên môn và đề cương luận án trươc khi cho nghiên
cứu sinh tiếp tục nghiên cứu để hòan thành và bảo vệ luận án.
Ở
thời điểm này, nhận thức của nhà nước về vấn đề đào tạo bậc tiến sĩ đã
có vài mặt tiến bộ. Tuy nhiên một số vấn đề cơ bản chưa được hiểu một
cách đúng đắn cần bàn thêm.
No comments:
Post a Comment