Charles Keith/ Đinh Cường dịch
“Những Nhà Truyền Đạo Ca-tô Giáo và Nhà Nước Thuộc Địa (ở Đông Dương)”
[Religious Missionaries and the Colonial State (Indochina)] của tác giả Charles Keith.
[Lời Người Dịch: Chúng tôi sẽ tiếp tục dịch những
bài viết khách quan có giá trị lịch sử của các tác giả tây phương để
độc giả đồng hương có cái nhìn sâu sắc hơn về lịch sử khổ đau của
Việt Nam trong giai đoạn cận đại, trước và sau khi trở thành thuộc
địa của Pháp. Qua bài này ta thấy rõ vai trò quan trọng và tội ác
không thể chối cãi của các cố đạo thuộc Hội Truyền Giáo (hay Thừa Sai)
Hải Ngoại ở Paris [La Société des Missions Etrangères de Paris (SMEP –
Sờ-Mép)] trong việc giúp đẩy nhanh việc Pháp đô hộ Việt Nam
ở thế kỷ 19. Bọn con chiens Mít xưng tụng đám này là “cha cố”
bởi vì chúng có gốc từ GH của Mẫu quốc Pháp, chứ không xuất thân
thấp hèn ở xứ thuộc đia. Trụ sở của Hội này vẫn còn tồn tại ở
số 128 Rue du Bac, 75007 Paris, France]
1. Giới thiệu
Ở Pháp, Đệ Nhất Thế Chiến đã giúp làm vơi những căng thẳng giữa
Giáo hội Ca-tô và Chính Quyền vốn đã định hình nền chính trị và xã hội
Pháp trong các thế hệ trước. Tuy nhiên, trong bối cảnh rất khác nhau
của thuộc địa thực dân Pháp đã ngăn chặn một sự hòa giải tương tự ở hải
ngoại. Bài viết này cho thấy làm thế nào ở Đông Dương thuộc Pháp, sự
khởi đầu của cuộc chiến tranh làm trầm trọng hơn sự khan hiếm các nguồn
lực và bất ổn chính trị đe dọa cả các doanh nghiệp thuộc địa và truyền
giáo, và đã gây nên các cuộc xung đột mới giữa hai bên. Sự hòa giải
của hai bên sau chiến tranh chỉ xảy ra trong việc các quan chức thực
dân và các nhà truyền giáo cùng chống đối các chiến dịch của giáo dân
Ca-tô Việt Nam đòi được thành lập một Giáo Hội độc lập, hơn là chống
Đệ Nhất Thế Chiến.
Khi Thế Chiến nổ ra vào tháng 8 năm 1914 đã có khoảng 400 nhà
truyền giáo Pháp hoạt động ở thuộc địa Đông Dương của Pháp. Hầu như tất
cả trong số họ thuộc về Hội Truyền Giáo (hay Thừa Sai) Hải Ngoại ở
Paris [La Société des Missions des Etrangères de Paris (SMEP)], một
dòng truyền đạo hoạt động tại Châu Á từ thế kỷ 17. [1]
Trong các thế hệ trước khi Thế Chiến, nền Đệ Tam Cộng Hoà thế tục của
Pháp (Third Republic) thành hình từ đống tro tàn của nền Đệ Nhị Đế
Quốc Pháp của đế Hoàng đế Napoleon III (1808-1873). Đó là một chế độ đã
đặt hai mục tiêu tâm điểm của chương trình để đổi mới đất nước Pháp
của mình. Sự tục hoá của đời sống công cộng thông qua việc chính thức
tách rời Giáo Hội và Nhà Nước và việc bành trướng của đế quốc thực dân
Pháp [2]
Đến năm 1914, một bộ máy quan liêu thực dân Pháp mạnh mẽ ở Đông Dương
đã kiểm soát mọi mặt của đời sống chính trị và kinh tế trong khu vực
châu Á, nơi mà các SMEP đã hoạt động tích cực đã hàng trăm năm trước.
Những năm đầu của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương là một thời
gian căng thẳng nghiêm trọng giữa các nhà truyền giáo và chính quyền
thuộc địa. Các nhà Truyền giáo và các quan chức Hải quân (một bộ phận
nổi tiếng là bảo thủ, ủng hộ Ca-tô giáo của xã hội Pháp) đã làm việc
với nhau khá hiệu quả trong cuộc chinh phục của Pháp tại Nam Kỳ
(Cochinchina) trong những năm 1860 và 1870, một giai đoạn khi các nhà
truyền giáo và các tổ chức của họ đóng một vai trò quan trọng trong
việc quản trị thuộc địa. Nhưng bắt đầu từ những năm 1880, sự nổi lên
của một chính quyền (xã hội) Pháp công khai chống Ca-tô giáo ở Đông
Dương đã dẫn tới một loạt các nỗ lực chính thức để giảm bớt ảnh hưởng
của đám truyền giáo trong xã hội Đông Dương.[3] [LND:
Có lẽ bọn cầm quyền thuộc địa nhận ra rằng các nổ lực cải đạo của
đám truyền giáo đã bị dân chúng chống đối quyết liệt, làm lung lay
sự cai trị của chúng]. Ngay cả trong những năm 1910, sự cai trị
của Pháp ở Đông Dương và những nỗ lực cải đạo là những cuộc kinh doanh
mong manh, bị đe dọa bởi sự đề kháng rộng rãi khắp Việt Nam chống lại
sự cai trị của ngoại bang và tôn giáo nước ngoài. Điều này đã dẫn đến
một loại thoả hiệp chung sống (modus vivendi), trong đó các quan chức
thực dân và các nhà truyền giáo - vẫn thường xuyên mâu thuẫn với nhau –
cố tìm cách cùng tồn tại. Làm thế nào mà sự bùng nổ của Thế chiến
thứ Nhất ảnh hưởng đến cuộc hoà hoãn khó khăn này giữa (hai lực
lượng) tôn giáo và thế tục trong thuộc địa Pháp ở Đông Dương?
Người Việt làm ở đường xe lửa tại Saint-Raphaël, France, năm 1916 Ảnh encyclopedia
2. Đồng thuận và căng thẳng do sự bùng nổ của Thế chiến thứ Nhất
Trong những ngày đầu của cuộc Thế Chiến, hình như cái gọi là "Liên
Minh Thánh" (Sacred Union) - là sự đồng thuận rộng rãi trong giới
chính trị và Hội truyền giáo Pháp để gạt các cuộc xung đột sang một bên
để đối mặt với chiến tranh - cũng đã có thể mở rộng trong toàn đế quốc
Pháp. Giới truyền giáo Pháp đã bị cuốn theo trong sự nhiệt tình của
những ngày đầu của cuộc chiến tranh và những ấn phẩm của các Hội
truyền giáo như SMEP tràn đầy những lời tâm huyết của các giáo sĩ sẵn
sàng gát lại những công tác truyền giáo của họ để tham gia vào trận
tuyến. Sự nhiệt tình này còn tiếp tục ngay cả khi các nhà truyền giáo
bắt đầu chết trong các chiến hào.
Trong nhiều trường hợp, những câu chuyện của các vị liệt sĩ chết
cho tổ quốc cốt khẳng định lòng yêu nước của Ca-tô giáo (Pháp) sau một
thế hệ trong đó vị trí của Giáo Hội trong xã hội Pháp vốn đã bị giám
sát gay gắt. [4] [LND:
à thì ra, tu sĩ sống trong quốc gia phải chịu sự chi phối bởi mọi
luật lệ của đất nước mình. Vậy thì khi GH Ca-tô Mít và con chiens
tự cho mình chỉ nghe lời Chúa, lời của Vatican chúng có phải là
những kẻ … phản bội, thất học hay không? Cùng một giá trị nhưng có 2
lý giải: tây và ta khác nhau. Ô hô!]
Tuy nhiên những sự thật ở thực địa Đông Dương, lại trái với
sự khẳng định rằng mối quan hệ của Giáo hội và Nhà Nước trong thời gian
chiến tranh đều giống nhau trong và ngoài mẫu quốc Pháp. Thật vậy,
nhiều nhà truyền giáo ở Đông Dương đón nhận sự bùng nổ của cuộc chiến
tranh với các mối quan ngại nhiều hơn sự nhiệt tình. Những lo ngại này
được bắt nguồn từ nhiều yếu tố: trước hết, rất nhiều các nhà truyền
giáo đã có mặt tại Đông Dương trong một thời gian dài, một số trường
hợp kể từ những năm 1880. Do đó, họ đã không có mặt để chứng kiến, và
bị ảnh hưởng bởi, sự gia tăng mãnh liệt của chủ nghĩa dân tộc vốn đã
phát triển trong những tháng trước chiến tranh.
Trong thực tế, những kỷ niệm cuối cùng về Pháp mà nhiều người
trong những nhà truyền giáo từng có là chủ nghĩa chống giáo quyền mãnh
liệt đã đi theo sự lớn mạnh của nền Đệ Tam Cộng Hoà vào những năm 1880, thể hiện trong Luật Ferry về giáo dục và đỉnh điểm là sự tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà Nước ở Pháp vào
năm 1905. Những kẻ này đã có một trải nghiệm rất khác nhau về Thế
chiến lan đến Pháp và ít có khả năng nhiệt tình về cuộc xung đột. [LND:
Thử hỏi, ở Mẫu quốc vài tên thất nghiệp được chiêu dụ, cho học
vài khoá ngắn hạn truyền đạo trở thành cố đạo trong Hội Sờ-Mép
(SMEP), rồi được phái sang các xứ thuộc địa, trong đó có Đông Dương,
vừa làm mật thám vừa làm cha thiên hạ ở vài khu đạo, xứ đạo …
hưởng đủ loại thú vui vật chất trên đời, có nằm mơ hay lên thiên
đàng cùng Chúa cũng không thể có được; thì dại gì trở về cố quốc để
làm cu li hay chết ngoài mặt trận.]
Một mối quan tâm hàng đầu hơn, tuy nhiên, là việc động viên
(nhập ngũ cho Thế Chiến) sẽ tàn phá các mối xâm nhập đã từng tranh
đấu khó khăn và mong manh mà những nhà truyền giáo đã đạt được trong
việc thực hiện các vụ cải đạo và xây dựng một cơ sở hạ tầng (ở xứ
thuộc địa). Các nhiệm vụ truyền đạo Ca-tô ở Đông Dương đã chịu nhiều
cuộc đàn áp khốc liệt từ các phán quyết của triều Nhà Nguyễn trong thời
đại Pháp đi chinh phục. Bắt đầu với sắc lệnh chống Ca-tô giáo (đạo Gia
tô, được gọi lúc bấy giờ) của Vua Minh Mạng (1791-1841) vào cuối
những năm 1830, các nhà truyền giáo đã bị hạn chế nghiêm ngặt về kỳ
vọng của họ để cải đạo quần chúng hoặc xây dựng những cơ sở như
trường học và các chủng viện. Trong những giai đoạn tồi tệ nhất của sự
căng thẳng giữa người Ca-tô giáo và triều Nguyễn - đặc biệt là sau cuộc
chiếm đóng phần phù sa Cochinchina (Nam Việt Nam) của Pháp vào năm
1862, một cuộc xâm lược Bắc Bộ (Bắc Việt Nam) bất thành trong năm
1873-1874 và cuộc chiến tranh Trung-Pháp 1882- 1885 đã dẫn tới sự bảo
hộ Việt Nam của Pháp - bạo lực phe phái lan rộng đã dẫn đến cái chết của
hàng chục nhà truyền giáo và hằng 100 ngàn giáo dân Ca-tô Việt. [5] [LND: Phong trào Văn Thân nổi lên vào năm 1864].
Đối với các nhà truyền giáo, các cuộc chinh phục của Pháp đã mang đến
một mức độ tự do mà các nhà truyền giáo ở Đông Dương chưa hề được
hưởng trong nhiều thập kỷ. Các điều kiện chính trị tương đối ổn định
dẫn đến việc tiền được đổ ào ạt vào Đông Dương, nhờ đó các nhà truyền
giáo đã phát triển các cơ sở Giáo Hội, cũng như các đầu tư nông
nghiệp của các cơ sở truyền đạo. Nhưng ngay cả trong lĩnh vực này tự do
hơn về hoạt động, sự chống đối các hoạt động truyền đạo vẫn còn khốc
liệt. Thật vậy, nhiều bộ phận nhân dân có ác cảm chung với Ca-tô giáo,
với một niềm tin chắc chắn rằng có sự liên kết giữa Ca-tô giáo và
chính quyền Pháp, tiếp tục làm cho việc mở rộng truyền đạo khó khăn
thêm. Khi Đại chiến nổ ra, các nhà truyền giáo tin rằng bất cứ sự thu
rút đáng kể nhân lực của họ sẽ đe dọa toàn bộ doanh nghiệp của Ca-tô
giáo ở Đông Dương.
3. Thế Chiến I và cuộc xung đột giữa Giáo hội (Ca-tô Giáo) và Nhà Nước ở Đông Dương
Việc chống lại động viên nhập ngũ đã xảy ra giữa các nhà truyền
giáo ngay từ đầu của cuộc chiến. Ví dụ, vào tháng Tám năm 1914, một
nhóm mười hai nhà truyền giáo trên đường về Pháp bằng tàu thuỷ đã
trốn lại Hồng Kông để yêu cầu không bị nhập ngũ vì lý do sức khoẻ. [6]
Vài người đã bạo dạn như thế, nhưng có nhiều người đã tìm mọi cách
trì hoãn mong sẽ được phép ở lại Đông Dương. Nhiều người cho rằng họ có
thể phục vụ tốt nhất cho nước Pháp bằng cách ở lại Đông Dương và cố
gắng mở rộng ảnh hưởng của Pháp qua cải đạo. Tuy nhiên, các quan chức
thuộc địa, người phải giải quyết các yêu cầu hoãn dịch của các nhà
truyền giáo, không nhìn thấy nó theo cách này. Vào năm 1914, các quan
chức Pháp ở Đông Dương đã bị lôi kéo vào một cuộc giằng co lâu dài với
các nhà truyền đạo khi họ tìm cách đến những vùng tại Đông Dương mà
nhà nước thuộc địa đang cố gắng mở rộng. Đối với quan chức cai trị
thì sự kháng cự động viên nhập ngũ của giới truyền đạo không chỉ là
phản quốc nói chung mà đó còn là một hình thức trực tiếp đề kháng với
sự mở rộng hơn của chính quyền thế tục của Pháp ở Đông Dương. [7]
Sự khởi đầu của Đệ Nhất Thế Chiến không chỉ tiếp tục cuộc chiến cũ
giữa Giáo Hội và Nhà Nước ở Đông Dương, nó còn mang lại một sự thách
thức mới cho những căng thẳng từ lâu. Ví dụ, cuộc chiến này trùng hợp
với một loạt các trận lụt khủng khiếp, dịch bệnh ở nông thôn Việt Nam.
Giới truyền đạo đã chứng kiến tận mắt và kêu gọi Nhà nước thuộc địa
giúp đỡ; Tuy nhiên, các hạn chế tài chính do các nỗ lực chiến tranh làm
giảm sự hỗ trợ của Nhà nước thậm chí còn kém hơn bình thường.
Giới truyền giáo bực mình cay đắng, đặc biệt ở thời điểm khi
Nhà Nước thực dân đang tích cực vận động, có lẽ thậm chí cưỡng bức, sự
tham gia của Việt Nam trong nỗ lực chiến tranh. [8]
Các quan chức thuộc đia báo cáo có một số trường hợp các nhà truyền
đạo cố gắng làm suy yếu những nỗ lực tuyển mộ của Nhà nước trong các
xóm đạo, mà các quan chức thuộc đia tin chắc là do sự chống đối của
giới truyền đạo cho chiến tranh. [9]
Quốc tịch của giới truyền đạo cũng là một mối quan tâm. Không phải
tất cả các nhà truyền đạo SMEP đều là người Pháp và các quan chức Pháp
và thuộc địa đã rất lo lắng về một số nhỏ trong số họ là công dân Đức
nhập tịch mà họ thực tập với những người truyền giáo cho đến khi chiến
tranh kết thúc. [10]
Một nguồn cơ mới và đặc biệt mãnh liệt của sự căng thẳng giữa các
nhà truyền giáo và quan chức thuộc địa là đã có hàng chục ngàn người
Việt Nam được tuyển mộ vào làm việc hay chiến đấu ở Pháp. [11]
Không rõ có bao nhiêu giáo dân nằm trong số những người Việt đi sang
Pháp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy là một số lớn của tân binh đến từ
khu vực miền Trung và miền Bắc Việt Nam (hang ổ Ca-tô Giáo ở Đông
Dương) và hình như họ đã tình nguyện, rất có thể khoảng 8-10 ngàn giáo
dân Việt Nam đã đi đến Pháp trong suốt quá trình chiến tranh. Nhiều
nhà truyền đạo một phần vui mừng rằng giáo dân Việt Nam sẽ có cơ hội
đến thăm đầu não của đạo Ca-tô giáo trên thế giới (chỉ Vatican) và có
lẽ ghé thăm các đất thánh như Lourdes. [12]
Tuy nhiên, họ cũng lo âu không kém. Nhiều người truyền đạo sợ rằng
giáo dân của họ có thể bị mất mạng hay sự vắng mặt của họ sẽ có những
hậu quả khủng khiếp cho gia đình vốn phụ thuộc vào sự lao động của họ.
Nhiều nhà truyền đạo còn sợ rằng giáo dân Việt Nam, nếu thoát khỏi
sự giám sát của giới truyền giáo, sẽ lạc lối tâm linh và nghiêng về
cám dỗ. Hoạt động chính trị thiên tả, được tự do ở Pháp hơn là ở Đông
Dương, là một mối quan tâm hàng đầu và các nhà truyền giáo đặc biệt bất
mãn thấy nền giáo dục thế tục đã tiếp cận dễ dàng với những người
lính và công nhân giáo dân Việt Nam, trong khi đó các nhà truyền giáo
lại bị cấm lai vãng vào các căn cứ quân sự. Lại nữa, các nhà truyền
giáo, đặc biệt bực bội cho rằng các quan chức Pháp tạo điều kiện cho
các hoạt động tôn giáo Việt Nam phi-Ca-tô giáo ở những nơi này. Thật
vậy, nhà cầm quyền Pháp đã xây dựng nhiều ngôi chùa cho Phật tử Việt
thờ phượng. Những gì các quan chức thực dân nhìn chỉ là một hành động
đơn giản và rõ ràng cho phù hợp với tôn giáo lớn của Việt Nam, các
nhà truyền giáo lại nhìn như một nỗ lực tích cực để đẩy người Công giáo
Việt Nam ra khỏi Giáo Hội. [13]
4. Kết luận
Lịch sử quan hệ giữa Giáo hội Ca-tô và Nhà Nước trong thời gian
Đệ Nhất Thế Chiến cho thấy sự năng động của cái gọi là "Liên Minh
Thánh," chỉ là cục bộ và căng thẳng lúc bấy giờ ở mẫu quốc Pháp,
không phải là một loại phân tích hữu ích để hiểu quan hệ ấy trong đế
quốc thuộc địa Pháp. Không giống như ở mẫu quốc Pháp, Ca-tô giáo là một
tôn giáo thiểu số ở tất cả các phần đất của đế quốc; trong một vài
xứ của đế quốc, người dân địa phương rất bất mãn với nó. Đối với các
nhà truyền giáo, việc động viên nhập ngũ gây ra một mối đe dọa đối với
tương lai của Giáo Hội không giống như tư duy của các giáo phẩm của
Giáo Hội tại mẫu quốc Pháp. Đối với nhà cầm quyền thuộc địa, sự đối
kháng của giới truyền giáo là một thách thức trực tiếp trong một cuộc
tranh giành ảnh hưởng cơ chế giữa Giáo Hội và Nhà nước ở Việt Nam rằng
ở Pháp, phần lớn đã kết thúc với việc củng cố Đệ Tam Cộng Hòa trong
những năm cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên, những căng thẳng trong quan hệ
giữa Giáo hội Ca-tô và Nhà Nước ở Đông Dương thuộc Pháp vẫn còn duy trì
trong suốt Đệ Nhất Thế Chiến, và sự kết thúc của cuộc chiến tranh
cũng chấm dứt phần lớn những căng thẳng đó. Trong những năm giữa hai
Thế chiến, Vatican dấy lên một chiến dịch cốt tạo ra các giáo hội bản
xứ độc lập trên khắp châu Á và châu Phi, một quá trình đã đẩy mạnh chủ
nghĩa tôn giáo dân tộc trong hàng ngũ giáo dân, bởi bấy giờ họ cũng
bất mãn mạnh mẽ về chế độ thực dân, tạo ra điểm chung cho chính quyền
thế tục và tôn giáo Pháp khiến cả hai đều quan tâm đến việc cố bảo tồn
uy quyền tây phương vào thời điểm mà uy tín của châu Âu đã bị thổi bay
bởi cuộc đại chiến, và đã đưa uy quyền này vào hồi hấp hối. [14]
Charles Keith, Đại học bang Michigan
Người Dịch: Đinh Cương
__________________________
a) Ghi chú
1. ↑
Đối với một lịch sử (thiện cảm) gần đây của MEP, xem Van Grasdorff,
Gilles: La belle histoire des nhiệm vụ étrangères, 1658-2008, Paris năm
2007. Đối với một lịch sử chung của đạo Công giáo ở Việt Nam, xem
Sinh, Bùi Đức: Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam [The Catholic Church in
Vietnam], Calgary 1998.
2. ↑
Về cuộc xung đột giữa Giáo Hội và Nhà Nước ở mẫu quốc Pháp trước
cuộc đại chiến, xem Lalouette, Jacqueline: La République anticléricale,
Paris 2002.
3. ↑
Về quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước ở Đông Dương trước 1914, xem
Daughton, James P .: Một Đế Quốc Chia Rẽ: Tôn giáo, Chủ nghĩa Cộng hoà
và Sự ra đời của chủ nghĩa thực dân Pháp, New York năm 2006.
4. ↑
Tạp chí Missions Catholiques xuất bản một số về vấn đề này. Hai ví dụ
từ phần đầu của chiến tranh là "La croix et l'épéé" (11 Tháng 9
1914), online: http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k105654n/f437.image
(truy cập: ngày 27 Tháng 1 năm 2015) và "La guerre et les
missionnaires" (ngày 12 tháng 2 năm 1915), online:
http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k1056551/f74.image (lấy: 27 tháng 1
năm 2015).
5. ↑
Về quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước ở Việt Nam trước khi sự cai trị
của Pháp trên khắp đất nước được củng cố, xem Ramsay, Jacob: Việt
Nam: Quan lại và Tử đạo: Giáo Hội và triều Nguyễn ở đầu thế kỷ mười
chín, Đại học Stanford năm 2008.
6. ↑
Tài liệu về giai đoạn này lấy từ "Guerre 1914-1918: Động Viên Nhập
Ngũ," Fonds du Gouvernement de la Cochinchine (sau đây ghi là GOUCOCH),
II B. 55/026, Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia II, Thành phố Hồ Chí Minh,
sau đây ghi là TTLT II).
7. ↑
Công Sứ tại Phú Thọ gởi Thống Sứ Bắc Kỳ, ngày 22 tháng 2 năm 1917,
trong Fonds de la Résidence Supérieure au Tonkin (sau đây ghi là RST)
21.376-06, Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia I (National Archives of Việt Nam
Trung tâm I, Hà Nội, sau đây ghi là TTLT I).
8. ↑
Eugène Allys gởi "bien cher Directeur", ngày 06 tháng năm 1915, thư
trao đổi của Eugène Allys, Lưu trữ của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Paris
(sau đây ghi là AMEP).
9. ↑
Tài liệu về một giai đoạn như thế lấy từ "Những can dự của các tu
sĩ Tây Ban Nha Velasco, Mestro và Montes trong những hoạt động tuyển
mộ khinh binh ở Phúc Yên, năm 1915," RST 56.751, TTLT I.
10. ↑
Tài liệu về trường hợp của Basil Lanter, một nhà truyền giáo, lấy từ
"A.s. du père LANTER, cáo buộc có sự gian dối về quốc tịch, 1915-1919,
"RST 20.872, TTLT I.
11. ↑
Về người lính Việt Nam tại Pháp, xem Hill, Kimloan: Cu-li tham gia vào
phiến quân: Tác động của chiến tranh thế giới về Đông Dương của Pháp,
Paris 2012.
12. ↑
Raynaud, Emile: Những người An Nam tại Lourdes. Trong: Annales de la
Société des Missions Etrangères de Paris, July-August (1916).
13. ↑
Raynaud, Emile: Những người An Nam tại Pháp trong thời gian chiến
tranh. Trong: Annales de la Société des Missions Etrangères de Paris,
July-August (1921).
14. ↑
Về việc chuyển đổi từ đạo Ca-tô truyền giáo sang đạo Ca-tô bản xứ tại
Việt Nam, xem Keith, Charles: Ca-tô giáo Việt Nam: Một Giáo Hội từ Đế
quốc đến Bản xứ, Berkeley năm 2012.
b) Tài liệu tham khảo được lựa chọn
- Daughton, James P .: Một đế quốc chia rẽ: tôn giáo, chủ nghĩa
cộng hòa, và việc hình thành chủ nghĩa thực dân Pháp, 1880-1914,
Oxford; New York 2006: Oxford University Press.
- Grasdorff, Gilles van: Câu chuyện đẹp của Truyền giáo Hải ngoại: 1658-2008, Paris 2007: Perrin.
- Keith, Charles: Ca-tô giáo Việt Nam: một giao hội từ đế quốc dến bản xứ, Berkeley năm 2012: Đại học California.
- Lalouette, Jacqueline: Nền Cộng Hoà chống giới tăng lữ: 19.-20. siècles, Paris 2002: Ed. du Seuil.
- Ramsay, Jacob: Quan lại và Tử đạo: nhà thờ và nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX Việt Nam, Đại học Stanford năm 2008: Stanford University Press.
- Tuck, Patrick J. N .: Giới truyền giáo Ca-tô Pháp và nền chính trị của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam, 1857-1914: một cuộc khảo sát tài liệu, Liverpool 1987: Liverpool University Press.
- Vũ-Hill, Kimloan: Cu-li gia nhập phiến quân: ảnh hưởng của Đệ Nhất Thế Chiến trên thuộc địa Đông Dương của Pháp, Paris 2011: Những thổ dân uyên bác.
- Grasdorff, Gilles van: Câu chuyện đẹp của Truyền giáo Hải ngoại: 1658-2008, Paris 2007: Perrin.
- Keith, Charles: Ca-tô giáo Việt Nam: một giao hội từ đế quốc dến bản xứ, Berkeley năm 2012: Đại học California.
- Lalouette, Jacqueline: Nền Cộng Hoà chống giới tăng lữ: 19.-20. siècles, Paris 2002: Ed. du Seuil.
- Ramsay, Jacob: Quan lại và Tử đạo: nhà thờ và nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX Việt Nam, Đại học Stanford năm 2008: Stanford University Press.
- Tuck, Patrick J. N .: Giới truyền giáo Ca-tô Pháp và nền chính trị của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam, 1857-1914: một cuộc khảo sát tài liệu, Liverpool 1987: Liverpool University Press.
- Vũ-Hill, Kimloan: Cu-li gia nhập phiến quân: ảnh hưởng của Đệ Nhất Thế Chiến trên thuộc địa Đông Dương của Pháp, Paris 2011: Những thổ dân uyên bác.
c) Bài được sửa đổi lần cuối: ngày 9 tháng 11 năm 2015
d) Trích dẫn
Keith, Charles: Giới Truyền đạo và Nhà Nước thuộc địa (Đông
Dương), từ: 1914-1918-online. Bách khoa toàn thư Quốc tế của cuộc Chiến
tranh thế giới thứ nhất, ed. bởi Ute Daniel, Peter Gatrell, Oliver
Janz, Heather Jones, Jennifer Keene, Alan Kramer, và Bill Nasson, do
Freie Universität Berlin, Berlin 2015/02/20. DOI:
http://dx.doi.org/10.15463/ie1418.10559.
e) Giấy phép
© 2014 Văn bản này được cấp phép theo: CC by-NC-ND 3.0 Đức.
No comments:
Post a Comment