Bầu
cử ở Mỹ ngày càng tốn kém. Tổng chi tiêu cho kỳ bầu cử tổng thống năm
1992 là 331 triệu đô-la; cuộc đua năm 2012 ngốn hết 2,6 tỷ. Cuộc đua đắt
nhất vào Thượng viện năm 1992 mất 18 triệu, so với 120 triệu trong mùa
2014. Tốn kém như vậy một phần là do nước Mỹ rộng lớn; chi phí tiếp cận
được hơn 300 triệu dân rất lớn, đặc biệt là ở các thị trường truyền
thông đắt đỏ như New York và Florida. Theo đài NPR, chi tiêu của tất cả
các ứng cử viên trong mùa 2016 chỉ riêng cho quảng cáo trên TV dự kiến
sẽ khoảng 4,4 tỷ.
Một
trong những nguyên nhân chính khiến chi tiêu tranh cử tăng chóng mặt
gần đây là án lệ Citizens United kiện FEC (Ủy ban Bầu cử Liên bang) vào
tháng 1-2010, khi Tòa án Tối cao Mỹ quyết định không hạn chế mức đóng
góp chính trị và chi tiêu vận động. Vụ này liên quan tới việc tổ chức
phi vụ lợi Citizens United muốn được chiếu một phim đả kích Hillary
Clinton, khi đó là thượng nghị sĩ, trong mùa bầu cử. Với tỷ lệ 5 thuận 4
chống, tòa phán quyết rằng các khoản chi tiêu bên ngoài (không trực
tiếp đóng góp cho ứng cử viên) cho quảng cáo trong mùa bầu cử là quyền
tự do ngôn luận, và mức chi tiêu của các cá nhân và tổ chức bên ngoài
không thể bị hạn chế.
Theo
luật về tài trợ tranh cử hiện nay, một người tranh cử vào chức vụ liên
bang chỉ được phép nhận tối đa 2.700 đô-la từ bất kỳ cá nhân nào, và
5.000 đô-la từ bất kỳ PAC (ủy ban hành động chính trị) loại thông thường
nào trong mỗi vòng sơ bộ hoặc kỳ tổng tuyển cử. Từ sau án lệ Citizens
United, cá nhân và tổ chức được tặng số tiền không hạn chế cho các super
PAC (phải công bố danh tánh của người tặng) và các “nhóm tiền bí mật”
(dark money group, không cần công khai tên của người tặng). Hạn chế duy
nhất là các super PAC và nhóm tiền bí mật không được trực tiếp đóng góp
cho chiến dịch của ứng cử viên, không được phối hợp hoạt động với ứng cử
viên hoặc thành viên chính thức của chiến dịch, nhưng được phép bày tỏ
quan điểm, vận động ủng hộ hoặc chống ứng cử viên. Song cũng có nhiều
chỉ trích về tính độc lập vì nhiều nhóm do các cựu trợ lý thân tín của
ứng cử viên quản lý.
Có
super PAC được lập để ủng hộ một ứng cử viên cụ thể, nhưng cũng có nhóm
ủng hộ nhiều ứng cử viên hay mục tiêu khác nhau. American Crossroads,
nhóm có liên hệ với chiến lược gia Karl Rove của George W. Bush, ủng hộ
ứng cử viên Cộng hòa nói chung. NextGen Climate Action nhà tài phiệt
Thomas Steyer ủng hộ giới vì môi trường trong Đảng Dân chủ. Independence
USA có liên hệ với cựu thị trưởng New York Michael Bloomberg và ủng hộ
giới ôn hòa.
Theo
hồ sơ nộp lên FEC, trong kỳ bầu cử tổng thống 2016, các super PAC và
nhóm độc lập khác tới nay đã chi hơn 215 triệu cho quảng cáo, thư từ,
điện thoại gọi tự động, và nhiều nỗ lực khác để thuyết phục cử tri. Sau
khi Trump thắng lớn tại các vòng sơ bộ ngày Siêu Thứ Ba 1-3, nhiều nhóm
chi hàng triệu đô-la cho quảng cáo đả kích Trump trên TV và gởi thư tới
nhà cử tri ở các bang lớn có bầu cử sơ bộ vào ngày 15-3 như Florida và
Illinois. (Tuy vậy, Trump tiếp tục thắng ở nhiều bang, trong đó sân nhà
Florida của Marco Rubio khiến Rubio bỏ cuộc.)
Bernie
Sanders, thượng nghị sĩ Dân chủ đại diện bang Vermont và ứng cử viên
tổng thống, tự hào là ông không có super PAC nào, và hứa nếu đắc cử sẽ
loại bỏ super PAC. Gần như toàn bộ gần 100 triệu đóng góp cho chiến dịch
của Sanders là từ những khoản nhỏ lẻ (xem bảng). Sanders ta thán: “Án
lệ Citizens United đã mở đường để Mỹ trở thành một xã hội kiểu tư bản
quả đầu mà ở đó một nhóm nhỏ các tỷ phú sẽ kiểm soát tiến trình chính
trị của chúng ta.”
Sanders
nhiều lần chỉ trích Hillary Clinton gây quỹ cho chính super PAC ủng hộ
bà. Clinton giải thích Priorities USA Action là super PAC ban đầu được
lập để giúp Obama tái cử, và nay chuyển sang ủng hộ bà (và do một cựu
trợ lý chiến dịch tranh cử của bà quản lý). Từ đầu năm 2015, nhóm này đã
huy động được hơn 40 triệu, trong đó các khoản cả triệu đô-la từ các
nhà tài chính mà Sanders thường đả kích, chẳng hạn tỷ phú quản lý quỹ
đầu tư James Simons tặng 3,5 triệu.
Super
PAC có thể gây tác động tới cử tri bằng nhiều cách chứ không chỉ quảng
cáo. Ví dụ, Correct the Record, super PAC do đồng minh David Brock của
Clinton sáng lập và được giới tự do giàu có tài trợ, chuyên về nghiên
cứu để phản biện các đối thủ. Tổ chức này từng phê phán quan điểm của
Sanders về kiểm soát súng. Super PAC làm cả chuyện “dân vận” như cử tình
nguyện viên đi gõ cửa từng nhà để xác định cử tri có thể bầu cho ứng cử
viên được tổ chức ủng hộ, hoặc sắp xếp đưa cử tri tới nơi bỏ phiếu.
Mấy
tháng qua tỷ phú George Soros đã bày tỏ lo ngại về hai ứng cử viên Cộng
hòa Donald Trump và Ted Cruz. Giữa tháng 3, khi Trump tiếp tục dẫn đầu
bên phe Cộng hòa, Soros tặng 5 triệu đô-la cho Immigrant Voters Win, một
super PAC vận động người gốc Latin và người nhập cư ở Colorado, Nevada
và Florida đi bầu. Mùa bầu cử này Soros đã tặng hoặc hứa tặng hơn 13
triệu đô-la để ủng hộ Hillary Clinton và các ứng cử viên Dân chủ khác,
hơn tổng số tiền ông tặng trong hai kỳ bầu cử tổng thống trước. Khoản
đóng góp lớn nhất của Soros năm nay là 7 triệu đô-la cho Priorities USA
Action, super PAC ủng hộ Clinton.
Năm
2004, Soros phá kỷ lục tài trợ chính trị khi chi tới 27 triệu đô-la cho
các phong trào cản trở tổng thống George W. Bush tái cử. Trong thời
buổi super PAC, số tiền tặng của Soros không còn nổi bật như xưa. Năm
2014, Thomas Steyer tặng hơn 70 triệu, và năm 2012 vợ chồng đại gia sòng
bạc Sheldon và Miriam Adelson tặng hơn 92 triệu. Kỳ này, các super PAC
ủng hộ Ted Cruz nhận được 15 triệu từ anh em tỷ phú dầu đá phiến họ
Wilk, 11 triệu từ tỷ phú Robert Mercer, đồng tổng giám đốc quỹ đầu tư
Renaissance Technologies. Nổi tiếng nhất có lẽ hai anh em Charles và
David Koch của Koch Industries, hãng không niêm yết lớn thứ nhì ở Mỹ,
với nhiều đóng góp chính trị hàng khủng trong nhiều năm qua. Riêng mùa
bầu cử 2016, mạng lưới hoạt động chính trị (ủng hộ phe Cộng hòa) của anh
em nhà này dự toán chi tiêu 889 triệu, so với mức gần 400 triệu trong
mùa 2012.
Super
PAC tất nhiên không dành riêng cho các mùa bầu cử, mà có thể vận động
cho bất kỳ mục đích nào. Ví dụ, tháng 10-2015, nhà đầu tư huyền thoại
Carl Icahn bỏ ra 150 triệu lập một super PAC để vận động ra luật đối phó
với việc “chạy thuế” của các công ty lớn, ví dụ chuyển trụ sở chính
hoặc lợi nhuận ra nước ngoài để giảm thuế. Theo một đề xuất cải cách
thuế quốc tế, để doanh nghiệp có động cơ đóng thuế ở Mỹ, hai thượng nghị
sĩ Charles Schumer và Robert Portman kiến nghị đánh thuế thấp một lần
với số tiền tổng cộng khoảng 2.200 tỷ lợi nhuận mà các công ty Mỹ để ở
các chi nhánh nước ngoài, và sau đó có thuế suất giảm đáng kể đối với
lợi nhuận trong tương lai. Icahn hẳn nhiên vì lợi ích riêng. Ông chiếm
0,05% cổ phần ở Apple, tức là có phần 900 triệu đô-la trong 180 tỷ tiền
mặt của Apple hiện ở nước ngoài. Với thuế suất hiện tại (35%), Apple
phải đóng thuế 315 triệu cho 900 triệu đó. Giả dụ có luật áp thuế thấp
chừng 10%, số thuế phải đóng chỉ là 90 triệu, coi như Icahn tiết kiệm
được 225 triệu – một suất sinh lời đáng kể cho 150 triệu.
No comments:
Post a Comment