2017/07/15

Chùa Báo Thiên đau nỗi đau của nước

Lê Quang Vịnh 

(Nguyên Trưởng ban Tôn Giáo Chính phủ)


Báo Thiên Tự được khởi công xây dựng từ năm 1056 [5] (đời vua Lý Thánh Tông), đúc 1 quả đại hồng chung nặng đến 1 vạn 2 ngàn cân (7260 kg). Báo Thiên Tháp có chóp làm bằng đồng, được xây dựng 1 năm sau khi xây dựng xong chùa.


Báo Thiên Tự, tên đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự, từng là một ngôi chùa cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất Việt Nam. Chùa tọa lạc tại thôn Tiên Thị, huyện Thọ Xương, (xưa gọi là phường Báo Thiên), gần hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm), bên ngoài thành Thăng Long. Khu vực này ngày nay là phố Nhà Chung, nơi có Nhà thờ Lớn Hà Nội, Tòa khâm sứ cũ, cùng nhiều trụ sở Công giáo khác.

Ở Hà Nội, phía Tây hồ Hoàn Kiếm, dọc theo trục Bắc Nam, có 1 đường phố ngắn (chỉ 300m) phía Bắc tiếp nối với phố Lý Quốc Sư, phía Nam đụng với phố Trường Thi, nằm gọn trog phường Hàng Trống thuộc quận Hoàn Kiếm, mang tên Phố Nhà Chung, thời Pháp thuộc gọi là Rue de la Mission (phố Hội Truyền Giáo hoặc phố Hội Thừa Sai).

Trên đường phố này xúm xít những cơ sở Công giáo như Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội , trụ sở của Hội đồng Giám mục Giáo hội Công giáo Việt Nam và mấy cơ sở bên “lương” như Câu lạc bộ Thanh thiếu niên [1] Hoàn Kiếm, Trung tâm ngoại ngữ Đại học Sư phạm… tiếp giáp với ngôi chùa cổ danh tiếng trong sử sách vẫn ghi là “Đền” Lý Quốc Sư [2].

Thời tôi còn công tác ở Ban Tôn giáo Chính phủ, tôi đã nhiều lần đến thăm chùa và nghe vị sư trụ trì [3] chùa Lý Quốc Sư kể chuyện, đưa cho đọc những tư liệu quí giá mà nhà chùa vẫn còn lưu giữ được về khu đất bên cạnh chùa. Thật bất ngờ cho tôi khi đọc thấy những chứng tích rằng toàn bộ khu đất ấy, ngày nay gọi là Phố Nhà Chung (Công giáo), ngày xưa là khuôn viên 1 ngôi chùa (Phật giáo) cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất nước ta.

Chùa đó có tên gọi tắt là Báo Thiên Tự, gọi đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự; trong sân chùa có một ngôi bảo tháp cao vòi vọi (12 tầng), cao đến mức bóng tháp soi xuống mặt nước hồ [4] Hoàn Kiếm. Tháp này có tên gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, gọi tắt là Báo Thiên Tháp.

Báo Thiên Tự được khởi công xây dựng từ năm 1056 [5] (đời vua Lý Thánh Tông), đúc 1 quả đại hồng chung nặng đến 1 vạn 2 ngàn cân (7260 kg). Báo Thiên Tháp có chóp làm bằng đồng, được xây dựng 1 năm sau khi xây dựng xong chùa.

Trong chùa và tháp có rất nhiều vật hạng bằng đồng như tượng Phật, thiền trượng, giới đao hộ pháp nhà Phật…cho nên năm 1427, khi quân Minh xâm lược bị vây khốn trong thành Đông Quan (tức Hà Nội), chúng cố thủ để chờ quân tiếp viện, đã đến chùa cướp phá tàn bạo: tốc chóp tháp đồng, nấu chảy đại hồng chung và tất cả những gì bằng đồng, bằng kim loại để làm vũ khí (đúc súng) chống lại quân Việt Nam của Lê Lợi – Nguyễn Trãi mãi cho đến khi biết rõ là các đạo quân tiếp viện (Liễu Thăng, Mộc Thạnh) đều đã bị đánh tan cả, mới chịu đầu hàng.

Tuy nhiên, nhà Lê không để chùa bị bỏ hoang, cho trùng tu và đại trùng tu nhiều lần ngôi chùa vẫn giữ vị thế bậc nhất nước ta.

Trong chùa Lý Quốc Sư ngày nay vẫn còn lưu giữ bản gấm thêu sắc tự của đời Cảnh Hưng (tức vua Lê Hiển Tông 1740-1786) về chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự. Trên nền tháp bị phá, đã được tôn cao bằng 1 đàn tràng cũng gần nơi bây giờ là nhà thờ lớn.

Về lý do diễn biến đổi thay từ chùa và tháp Báo Thiên, 1 trong “Tứ đại khí” hay “Tứ bảo khí” của Việt Nam cổ (tạm dịch là 4 công trình to lớn và quí báu của nước Nam ta) thành ra Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, Hội đồng Giám mục Giáo hội Công giáo Việt Nam và các tu viện Công giáo xung quanh đó ngày nay, thì dò theo các quyển sách lịch sử đáng tin cậy như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hà Thành thất thủ chính khí ca (khuyết danh) – bản trường ca về việc Hà Nội bị Pháp đánh chiếm lần thứ 2 (Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu 1829-1882, NXB Đà Nẵng 2001, trang 54-66), Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn văn Tân, NXB Văn hóa Thông tin , Hà Nội 1998; Từ điển đường phố Hà Nội – NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2000; Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm -Công giáo và Dân tộc, xuân 1996, Thành phố Hồ Chí Minh ; Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long -NXB văn hóa thông tin, Thời báo kinh tế Việt Nam, tập I, 2007… tôi suy ra những kết luận chuẩn xác như sau:

Số là sau khi được triều đình Huế chính thức nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) theo hòa ước 1862 (Nhâm Tuất), đến 1867 (Đinh Mão) quân Pháp lại chiếm luôn 1 cách dễ dàng cả 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên) nữa, soái phủ Sài-gòn có ý định chiếm nốt xứ Bắc Kỳ, để thiết lập vững chắc nền đô hộ của Pháp ở Viễn Đông.

Đô đốc Dupré viết thư sang Pháp:

“Xứ Bắc Kỳ rất giàu và nối liền với nước Tàu. Đó là nơi để các tỉnh phì nhiêu Tây Nam xứ Trung Hoa tải sản vật sang cho ta. Việc chiếm cứ xứ này là vấn đề sinh tồn cho tương lai cuộc đô hộ của ta ở Viễn Đông”. (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 117)

Pháp sử dụng hòa ước 1862 như 1 công cụ “tàm thực” (tằm ăn dâu) thần hiệu: “… Đạo Thiên Chúa được tự do truyền giáo … Người Pháp và người Tây Ban Nha được quyền mở 3 hải cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên và tự do đi lại buôn bán trong nước ta…” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 87)

Năm 1871, có 1 thương gia người Pháp tên là Jean Dupuis đi tìm 1 con đường sông ở Bắc Kỳ giao thông với tỉnh Vân Nam của Tàu. J.Dupuis mộ lính Tàu và tập họp 1 băng đầu trộm đuôi cướp về đóng tại Hà Nội .

Quan ta không có quyền đuổi họ đi, bèn tâu về triều, xin phản kháng với đô đốc thống lĩnh xứ Nam Kỳ. Nhưng đô đốc Dupré chỉ 1 mực bênh vực Dupuis.

Tháng 5-1873, quan ta bắt giam đồ đảng người Nam và người người Tàu của Dupuis, thì Dupuis bảo sẽ dùng vũ lực phá nhà ngục, đánh tháo cho những kẻ bị bắt giam. Dupuis lại đòi mua muối, củi để tàu của mình dùng, nhưng quan ta không chịu, khiến tình hình càng hết sức căng thẳng.

Thuở ấy, Nguyễn Tri Phương được vua Tự Đức bổ nhiệm chức Bắc Kỳ Khâm mạng tuyền sát đổng sức đại thần (kinh lược sứ Bắc Kỳ), điều quân từ Sơn Tây về giữ thành Hà Nội.

Đáp lại thư phản kháng của triều đình Huế, soái phủ Sài-gòn còn giúp thêm cho J.Dupuis 3 vạn quan tiền.

Ngày 27-7-1873, Dupré đánh điện tín về bộ Hải quân:

“Xứ Bắc Kỳ đã mở cửa thông thương nhờ công của Dupuis. Việc này có ảnh hưởng lớn đến thương mại của Anh, Đức, Mỹ. Ta cần phải chiếm xứ này trước, đừng để bọn giặc Tàu hay người Tây phương khác chiếm. Như thế ta sẽ đem lại cho nước Pháp 1 con đường buôn bán độc quyền. Tôi không xin thêm viện binh. Tôi sẽ đem quân lực sẵn có đi đánh. Sự thành công rất chắc chắn”. (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 119).

Soái phủ Sài-gòn truyền lệnh cho trung tá [6] Francis Garnier mang 1 tiểu đội chiến thuyền ra Bắc Hà trước để điều tra vụ Dupuis, sau buộc triều đình Huế mở rộng xứ Bắc Kỳ cho người Pháp buôn bán. Ngày 17-9-1873, F.Garnier rời bến Sài-gòn và đến ngày 5-11, đem quân đến Hà Nội .

F.Garnier vừa mới gặp Nguyễn Tri Phương đã khiêu khích rất hách dịch, đòi đóng quân ngay trong hoàng thành, bắt buộc các địa phương phải để cho người Pháp thông thương trên toàn cõi Bắc Kỳ, nhưng Nguyễn Tri Phương cự tuyệt, lý do là vì chưa có lệnh triều đình. Thực sự Francis Garnier khiêu khích để châm ngòi cuộc chiến tranh:

“Tôi nhất định đánh. Tôi sẽ đem 180 quân bản bộ hạ thành Hà Nội và bắt Nguyễn Tri Phương giải về Nam, làm tù binh” (Thư của Francis Garnier gởi về Soái phủ Sài-gòn cho Đô đốc Dupré ngày 10-11-1873).

Ngày 20-11-1873, đúng 6h sáng, Francis Garnier truyền lệnh hạ thành Hà Nội. Đại bác ta trên thành bắn ra không có tác dụng gì cả, đạn lướt qua đầu quân Pháp và rớt xuống cả mặt đất phía sau. Quân ta trong lúc hoảng hốt, quăng xuống vô số đá to, đá nhỏ mà chẳng trúng tên quân Pháp nào. Một đại bác của Pháp bắn vỡ cửa Đông, quân Pháp ào tới, ập vào thành. Đến 7h, cờ Pháp bay trên vọng lâu trung ương thành Hà Nội. Phò mã Nguyễn Lâm tử trận. Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương nặng ở đùi, bị Francis Garnier bắt được. Francis Garnier phái các bác sĩ đến băng bó vết thương, đổ cháo và thuốc vào miệng ông để ông mau phục sức. Nhưng Nguyễn Tri Phương dứt cả băng bó, phun cháo và thuốc ra, nhất quyết tuyệt thực cho đến chết. Francis Garnier đem thông ngôn [7] đến ngồi bên giường ôn tồn an ủi. Nguyễn Tri Phương thản nhiên đáp:

“Làm tướng phải chết và chết ở trận tiền không phải là cái chết nhục nhã” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang123)

Ngày 20-12-1873, Nguyễn Tri Phương trút hơi thở cuối cùng, thọ 74 tuổi (1799-1873).

Francis Garnier lúc ấy đóng quân ở Trường Thi [8] đem toàn bộ ngôi chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự ở gần đó giao cho người thông ngôn của mình là Giám Mục Puginier làm nhà ở và nơi làm việc tạm thời. Giám Mục cho cất thêm mấy gian nhà gỗ trong khuôn viên chùa [9], còn Tòa Giám Mục thì vẫn đặt tại Sở Kiện. Trong mấy năm sau đó, tình trạng này vẫn không thay đổi vì chỉ đến ngày 21-12-1873 thì Francis Garnier bị quân Cờ Đen phục kích giết chết, quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế cai quản theo hòa ước 1874 (Giáp Tuất).

Mãi cho đến 9 năm sau, Soái phủ Sài-gòn mới cử Henri Riviere [10] ra đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2 (1882-Nhâm Ngọ). Lần này thì Tổng đốc Hà Ninh [11] là Hoàng Diệu (trọng trấn từ 1879) quá phẩn uất trước cảnh vua và triều đình bạc nhược chủ hòa [12], không quyết tâm phòng bị, còn các quan chức kế cận mình thì hèn nhát bỏ trốn trước giờ lâm trận, thậm chí phản bội đầu hàng, cho nên sau khi viết xong tờ di biểu, ông đã treo cổ tự tử trên cây ổi ở miếu Công Thần trg Hành Cung Kính Thiên.

Sau khi chiếm được Hà Nội, Henri Riviere sai phá hủy các cổng thành và nhiều đoạn tường thành, vần hết đại bác trên thành ném xuống hào. Các chùa miếu quanh thành đều bị phá phách, xô sập tất cả, 1 mặt để lấy gỗ gạch làm công sự [13], mặt khác là để thực hiện chủ trương triệt hạ nền văn hóa cổ truyền bản địa [14] và độc tôn Thiên Chúa giáo mà thực dân Pháp vẫn được Vatican tuyên dương là Trưởng Nữ của Giáo hội. Cũng chính trong thời điểm này, Báo Thiên Tự bị phá hủy hoàn toàn và biến mất trên bản đồ Hà Nội.

Khu vực chùa và tháp Báo Thiên cũ được ước đoán theo các tư liệu lịch sử. Có thể chính điện của Chùa nằm trên nền đất nay là Nhà thờ Lớn và Tòa Tổng giám mục Hà Nội; Tháp Báo Thiên tọa lạc trên khoảng đất thuộc khu vực Tòa khâm sứ cũ. Khuôn viên vườn chùa (Thời Lý – Trần – Lê) kéo dài đến qua khu Chủng viện, Dòng mến Thánh giá ra sát Hồ Gươm.

Năm 1884, hàng ước Patenotre được ký kết, triều đình Nguyễn chấp nhận Pháp bảo hộ và chia Việt Nam thành 3 kỳ: Nam Kỳ là xứ thuộc địa (colonie) của Pháp, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ (protectorat) của Pháp, Trung Kỳ được gọi là Đế chế An Nam (Empire d’An Nam) – sự thật thì cả ba kỳ đều chung 1 chế độ lệ thuộc, ngay trong đế chế An Nam thì vua mặc dù có những vị vua yêu nước muốn khôi phục độc lập chủ quyền cho Dân tộc, nhưng cuối cùng phải bị bắt bị đày, bởi “vua thì còn đó, nước thì không “, triều đình quan lại thì mặc dù cũng có những ông quan tận trung báo quốc nhưng cuối cùng phải bị giết bị tù bởi triều đình quan lại rút cuộc chỉ là con rối trong tay thực dân Pháp mà thôi, Giám Mục Puginier mới cho xây dựng lại bằng những vật liệu kiên cố Nhà Thờ Lớn và các tòa nhà khác của Nhà Chung rồi dời Tòa Giám mục [15] về đây.

Năm 1925, Tòa Thánh Vatican lập Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Việt Nam (Delegue’ Apostolique16 F, Apostolic Delegate [16] E) và trụ sở ban đầu đặt tại Huế, đến năm 1951 mới dời ra Hà Nội và Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh được xây dựng ngay trên khu đất Phố Nhà Chung này. Đến năm 1957, sau khi hiệp định Geneve được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền tập kết quân đội, đợi ngày hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Nhưng chính quyền miền Nam nhất định không chịu hiệp thương tổng tuyển cử, Tòa Thánh Vatican thì nhất quyết không thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên chuyển Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh vào Nam (Sài-gòn) là nơi mà Tòa Thánh công nhận là “đại diện duy nhất” (!) cho nước Việt Nam…

* * *

Tái bút: Noel 2007, hàng trăm thanh niên Công giáo Hà Nội đã xông vào địa chỉ 42 phố Nhà Chung đang là trụ sở của Phòng Văn hóa Thông tin, Nhà Văn hóa & Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm[1], phát hàng vạn tờ truyền đơn đòi Nhà nước phải trả lại cho Tòa Tổng Giám Mục khu đất ở địa chỉ này mà họ cho là của Tòa Khâm sứ (cũ).

Họ trưng ra 1 bức thư của người đại diện Tòa Thánh Vatican khi rời Hà Nội vào Sài-gòn năm 1959 cám ơn Tòa Giám Mục Hà Nội đã cho mượn đất để xây dựng Tòa Khâm sứ (cũ).

Tôi không tham gia vào cuộc tranh chấp phức tạp này. Tuy nhiên tôi không thể không ghi lại lịch sử cụ thể của khu đất bao gồm cả địa chỉ 42 và 40 và toàn bộ phố Nhà Chung (hiện nay) trên đó tọa lạc Tòa Khâm sứ (cũ) và Tòa Tổng Giám Mục, Nhà Thờ Lớn Hà Nội và các tu viện, đan viện và các cơ sở Nhà chung khác nữa ở đây, đều nằm trong khuôn viên của ngôi chùa cổ gần 1000 năm và đồ sộ, nguy nga vào bậc nhất nước Nam xưa.

Ngôi chùa ấy đã là nạn nhân cực kỳ đau khổ của quân xâm lược nước ngoài: năm 1426, quân xâm lược Tàu (Vương Thông nhà Minh) đã phá đổ Đại Thắng Tư Thiên Tháp cao 12 tầng và cướp phá nghiêm trọng những vật hạng bằng đồng, bằng kim loại trong chùa để đúc súng, tuy nhiên sau đó nhà Lê đã cho trùng tu, đại trùng tu nhiều lần ngôi chùa sắc tứ này; năm 1873, quân xâm lược Pháp (F.Garnier) lấy ngôi chùa này giao cho Giám Mục Puginier dùng làm nhà ở và chỗ làm việc tạm khi Giám Mục về Hà Nội làm thông ngôn cho F.Garnier, tư lệnh cuộc đánh chiếm Hà Nội lần thứ I; năm 1882, sau khi đánh chiếm Hà Nội lần thứ II, quân xâm lược Pháp (H.Riviere) đã xô sập tất cả đền chùa xung quanh Hà Nội để lấy gạch gỗ đá xây dựng công sự; năm 1884, trên khu đất khuôn viên chùa cũ, Giám Mục Puginier cho xây dựng nên Nhà Thờ Lớn và dời Tòa Giám Mục về đây (1887)…

Chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự và Đại Thắng Tư Thiên Tháp (tức Báo Thiên Tháp 12 tầng cao) ngày nay không còn nữa, nhưng chứng tích của nó thì vẫn rành rành ra đó, không có gì để nghi ngờ bàn cãi. Chuyện xảy ra chỉ mới hơn 120 năm, đối với đời người thì có thể nói là dài, nhưng đối với lịch sử thì chẳng là bao năm cả.

Chùa và tháp Báo Thiên gắn liền với truyền thống chống xâm lược của dân tộc ta, với thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, với máu lệ của “những kẻ tôi trung tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương” [17] Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.

———————————————————————-
Chú thích:

[1] nay đã chuyển thành thư viện Hàng Trống.
[2] thờ Vạn Hạnh thiền sư (9?? – 1018 )
[3] Thượng Tọa Thích Bảo Nghiêm
[4] Báo Thiên Tháp Ảnh: Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam , NXB Văn hóa –Thông tin, Hà Nội 1998, tr 92.
[5] nguyên văn : “Bính thân, năm thứ 3, mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu khuyến nông, làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua (Lý Thánh Tông nổi tiếng thương dân như con) thân làm bài minh. Đinh dậu, năm thứ 4, mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên, cao vài chục trượng , 12 tầng…” (ĐVSKTT, tập I, NXB VHTT 2004, tr 318).
[6]capitaine de fregate, Trần Trọng Kim dịch là Đại úy, nhưng tôi (Lê Quang Vịnh ) nhận thấy quá thấp, bởi trg hải quân Pháp cổ, capitaine có nghĩa là chiến thuyền trưởng chứ không phải là đại úy như trg lục quân, hơn nữa có 3 cấp capitaine là Capitaine de corvette=thiếu tá hải quân; Capitaine de fregate=trung tá hải quân; Capitaine de vaisseau=đại tá hải quânèdo đó đề nghị dịch lại là trung tá hải quân (theo Larousse 1992).
[7] chính là Giám Mục Puginier (theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim)
[8] khoảng giữa Thư viện KHXH và Trường Kỹ nghệ Hà Nội (theo Hà Thành thất thủ ca, câu 8)
[9] theo Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, tập I, 2007, trang
[10] Capitaine de vaisseau=Đại tá hải quân (xem chú thích số 6)
[11] Hà Ninh có 2 nghĩa trái ngược nhau: theo Trần Trọng Kim trg Việt Nam sử lược là Hà Nội + Ninh Bình, theo Nguyễn Hoàng Viên trg Hoàng Diệu 1829-1882 là Hà Nội + Ninh Bình + Hà Nam, nhưng theo Hoàng Xuân Hãn trg bản nghiên cứu về Chính Khí Ca thì lại là Hà Nội + Bắc Ninh.
[12] Vua Tự Đức nói: “Bàn hòa là người có công, bàn chiến là kẻ có tội…” (Đặng Duy Phúc: Thăng Long. Đông Kinh. Hà Nội , nơi hội tụ nhân tài. NXB Hà Nội 1996)
[13] Trg Hà Thành thất thủ ca có ghi: /Kính Thiên ngài ngự thếp vàng,/Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu./Các chùa miếu đâu đâu đấy tá,/Can gì Tây cũng phá tan tành? (câu 115-118)
[14] còn có 1 yếu tố tinh thần khác dẫn đến quyết định của H.Riviere phá hết các đình chùa ở Hà Nội mà Giáo sư Vũ Khiêu có nhắc tới: “Ngay từ giờ phút đầu tiên…các đình chùa đều đánh trống, gõ mõ, khua chiêng vang dội để khoa trương thanh thế áp đảo địch và hỗ trợ cho tinh thần quyết chiến của quan quân trong thành…” (Giáo sư Vũ Khiêu: Lễ tưởng niệm danh nhân yêu nước Hoàng Diệu nhân 170 năm sinh tại Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội ngày 30-10-1999. Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu , NXB Đà Nẵng 2001, trang 216).
[15] tên gọi của Tòa Giám Mục đã thay đổi rất nhiều lần kể từ khi đạo Thiên Chúa được truyền vào Việt Nam. Năm 1679, Tòa Thánh chia Địa phận Đàng Ngoài thành 2: Địa phận Tây và Địa phận Đông Đàng Ngoài. Năm 1846, Địa phận Tây Đàng Ngoài lại được chia làm 2: Địa phận Tây Đàng Ngoài và Địa phận Nam Đàng Ngoài. Hà Nội nằm về phía Tây nên thuộc về Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Tòa Giám mục lúc ấy được gọi là Tòa Giám Mục Tây Đàng Ngoài. Mãi đến năm 1924 mới lấy tên nơi đặt Tòa Giám Mục làm tên gọi các Giáo phận. Tòa Giám Mục Hà Nội có tên từ ấy (GHCGVN, niên giám 2004, trang 218)
[16] Apostolic Delegate: Khâm sứ Tòa Thánh Biểu tượng cảm xúc smile vị đại diện của Đức Giáo Hoàng, không làm nhiệm vụ ngoại giao như apostolic nuncio mà chỉ làm nhiệm vụ của Giáo Hội là liên lạc với các giám mục ở những quốc gia không có quan hệ ngoại giao chính thức với Vatican (Nguyễn Đình Diễn: Từ điển Công giáo Anh Việt, NXB Tôn giáo , Hà Nội 2002, trang 49)
[17] Hồ Chí Minh : Lịch sử nước ta à Nước ta nhiều kẻ tôi trung/Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương /Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương /Cùng thành còn mất, làm gương để đời

Người Công giáo bị ghét liệu có phải vì chuyện ý thức hệ

Chiềng Chạ


Trang Công Giáo: Đạo vào Đời, một trang tin do một nhóm người Công giáo địa phận Vinh đứng ra sáng lập và điều hành có bài viết "Vì sao CS ghét người Thiên Chúa Giáo?". 

Để trả lời cho một câu hỏi có tính quy kết, ám thị nhiều hơn là nhìn nhận khách quan sự việc, trang này đã bắt đầu như sau: "Có một nhóm người mà CS không thể nào chịu được và gần như thất bại trong việc lôi kéo họ theo lý tưởng của mình, đó chính là người Thiên Chúa Giáo. Vậy có bao giờ bạn tò mò tự hỏi vì sao? Sau đây là lời lý giải của một bạn người Công Giáo". 
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet). 

Họ lí giải sâu về vấn đề này bằng những việc chỉ ra mối tương quan giữa giáo lý đạo Thiên chúa với Chủ nghĩa Cộng sản:
"Người Thiên Chúa Giáo tin rằng họ thuộc về Chúa. Chúa là người ban cho họ sự sống, quyền lợi cũng như tương lai. Và chỉ có Chúa mới có quyền phán xét và lấy đi quyền lợi của họ, vì những thứ đó đến từ Chúa chứ không phải chính phủ. “Tôi thuộc về Chúa” và chỉ có Chúa mới có quyền lấy đi quyền lợi tự nhiên và linh hồn tôi.

Chính phủ, trong trường hợp này, một chính phủ thực hiện lý tưởng CS, yêu cầu mọi người phải từ bỏ tất cả mọi thứ để trung thành với chủ nghĩa và lý tưởng CS. Nghĩa là mọi người phải theo chủ nghĩa vô thần, vì chỉ khi họ không có tôn giáo thì họ mới dành hết linh hồn mình cho chính phủ. Điều này hoàn toàn nghịch với những giá trị của Thiên Chúa Giáo, vì người Thiên Chúa Giáo không thể nào từ bỏ Chúa để trao mình cho chính phủ hay một lý tưởng vô thần.

Nếu chúng ta nhìn rộng hơn nữa, xuyên suốt lịch sử các nước Châu Âu, quá trình phát triển văn minh nhân loại được thúc đẩy nhờ vào tổ chức Thiên Chúa Giáo. Chính các tổ chức Thiên Chúa Giáo và những giá trị đạo đức, tinh thần của họ đã cứu vớt nền văn minh Châu Âu sau khi Đế Chế La Mã sụp đổ. Chính những giá trị của Thiên Chúa Giáođã tạo ra chủ nghĩa tư bản, hệ thống an sinh xã hội. Và cũng chính những giá trị đó đã tạo ra nước Mỹ.

Chẳng hạn vào thời Trung Cổ, chính các nhà thờ là nơi giữ gìn chữ viết, văn hóa và tinh hoa của nền văn minh Tây Phương. Kinh thánh được xem là một tài liệu lịch sử thu nhỏ. Hệ thống giáo dục, đại học cũng đến từ tổ chức Thiên Chúa Giáo và vô số những công trình kiến trúc nổi tiếng trên khắp thế giới như nhà thờ Notre Dame – Paris và ở Việt Nam như Nhà thờ Con Gà – Đà Lạt, nhà thờ

Không phải ngẫu nhiên mà các Nhà Sáng Lập Mỹ lại ghi trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập câu sau đây:

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Thiên Chúa Giáo và người Thiên Chúa Giáo là mối đe dọa lớn nhất đối với chủ nghĩa CS vì họ thuộc về Chúa nên không thể nào thuộc về chính phủ hay một lý tưởng vô thần". 

Theo cách lí giải này thì chính việc không thu phục được những người Công giáo theo mình, theo học thuyết có tính nền tảng của mình. Nên những người Cộng sản đã sinh ra cái sự ghét người Thiên chúa giáo. 

Tuy nhiên, nhận định này là hết sức phiến diện, lệch lạc. Bởi 2 điều được nói dưới đây. 

1. Việc nói rằng, người Cộng sản ghét người Thiên chúa giáo là hoàn toàn không đúng, bởi nếu đã ghét người Thiên chúa giáo thì liệu họ có được chung sống hòa bình và được hưởng tất cả những thứ quyền mà một người không theo đạo có? 

Ngoài vấn đề khác nhau về ý thức hệ, hệ tư tưởng thì với chế độ hiện thời tại Việt Nam, Thiên chúa giáo có những vết nhơ trong quá khứ. Sự du nhập của đạo Công giáo gắn chặt với hành trình xâm lăng Việt Nam của các nước thực dân Phương Tây, cụ thể là nước Pháp đã nhiều người có mặc cảm với tôn giáo này; việc một bộ phận chức sắc Thiên chúa giáo gắn chặt quyền lợi với các chế độ thực dân, đế quốc trong trong giai đoạn tiếp theo lại khiến cho hình ảnh họ trở nên méo mó và biến dạng hơn.... Tuy nhiên, vượt qua tất cả họ vẫn được chế độ mới sau khi thiết lập dung thứ và không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào. 

Nói như thế để thấy rằng, vấn đề ý thức hệ không phải là vấn đề gì đó quá lớn. Và khi mà người ta đã chấp nhận tha thứ với những điều to lớn hơn (phản bội Tổ quốc) thì vấn đề khác biệt về mặt ý thức hệ là chuyện hết sức bình thường, không phải là lực cản quá lớn. 

Đó là chưa nói tới, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập chế độ Cộng sản tại Việt Nam đã xác định rất rõ sự hài hòa, chung sống hòa bình giữa học thuyết Chủ nghĩa Cộng sản, chế độ Cộng sản với các tôn giáo trong đó có Thiên chúa giáo: "Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân .

Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.

Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.

Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta.

Khổng Tử, Giê su, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy". 

2. Vấn đề thứ hai cần nói đến chính là việc, bất cứ chế độ nào cũng sẽ chán ghét một tôn giáo nếu như tôn giáo đó có những thứ đi ngược lại tinh thần và mục tiêu xã hội đã được định ra. Kiểu như trong khi đại đa số người dân đang cần sự ổn định để phát triển kinh tế, xã hội thì những nhà lãnh đạo tôn giáo đó lại đi ngược lại. Họ chỉ đạo tín đồ của mình chống lại nhà nước hoặc nhân danh những thứ khác nhau để chống lại nhà nước, xem nhà nước là kẻ thù, là mục tiêu cần xóa bỏ! 

Tại Việt Nam, dù điều vừa nói đến chưa hiện hữu thực sự. Tuy vậy, nó đã ít nhiều xuất hiện. Những sự việc xảy ra gần đây tại GP Vinh sau sự cố ô nhiễm môi trường do công ty Formosa gây ra là một ví dụ có tính điển hình. Rất đồng ý, sau sự cố gây ra, rất nhiều người dân, trong đó có người Công giáo đã bị điêu đứng, cuộc sống chồng chất khó khăn và việc đòi kêu đòi quyền lợi chính đáng vì thế là hết sức cần thiết. 

Nhưng nó hoàn toàn khác với việc lợi dụng việc kêu đòi quyền lợi để chống Nhà nước, tuyên truyền chống nhà nước và gây nên những hệ lụy đi kèm như gây rối an ninh, trật tự... Và xin thưa rằng, đây mới là điều làm cho nhà nước cũng như những người không theo tôn giáo chán ghét người theo đạo Thiên chúa. 

Sự chán ghét vì thế không xuất phát từ chuyện ý thức hệ. Mà xuất phát từ việc những kẻ nhân danh Thiên chúa, nhân danh người có đạo để làm những điều trái với đạo lý, pháp luật. Và đương nhiên, họ chỉ chán ghét những bộ phận đó chứ không phải chán ghét tất cả người theo đạo Thiên chúa. 

CẦN PHẢI XỬ LÝ NGHIÊM ĐỐI VỚI KẺ XÚC PHẠM CÁC VỊ ANH HÙNG DÂN TỘC


Phan Văn Lợi bấy lâu nay được biết đến là một kẻ đội lốt linh mục tiến hành các hoạt động kích động, chống phá đất nước của phong trào dân chủ. Trong những luận điệu mà Phan Văn Lợi đưa ra luôn thể hiện sự hằn học với chế độ. Đặc biệt, hôm 10/7 vừa qua trên trang cá nhân của mình Phan Văn Lợi không những tiếp tục thể hiện sự hằn học với chế độ mà còn trực tiếp xúc phạm đến các vị anh hùng dân tộc như Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp….
           Khi Phan Văn Lợi thì đọc được bài viết trên lề báo RFA với tiêu đề“Cuộc sống của cựu tù nhân lương tâm Việt Nam”. Trong khi bài viết này là một sự vu cáo trắng trợn về vấn đề thi hành hình phạt tù của các “nhà dân chủ” tại các trại giam. Bởi lẽ, trong quá trình thi hành tại trại giam thì những tù nhân này không chịu chấp hành nội quy trại giam, không chịu cải tạo giáo dục trở thành người có ích cho xã hội nên có thể bị kỷ luật giam ở buồng kỷ luật là điều dễ hiểu. Hơn nữa, vấn đề tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam thực hiện tương đối tốt, từ trong trại giam, phạm nhân đã được đào tạo nghề để phục vụ việc tái hòa nhập cộng đồng, được tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng. Nhưng đám dân chủ thì chẳng bao giờ nhận thức được chính sách nhân đạo đó. Còn đường để chúng tái hòa nhập cộng động của chúng không theo hướng hoàn lương hối cải mà theo hướng ngựa quen đường cũ. Và tất cả đổ lỗi cho chính quyền, sâu xa hơn là đổ lỗi do các vị anh hùng dân tộc.
CẦN PHẢI XỬ LÝ NGHIÊM ĐỐI VỚI KẺ XÚC PHẠM CÁC VỊ ANH HÙNG DÂN TỘC
Khi Phan Văn Lợi cho rằng“những kẻ tàn ác đối với dân tộc như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…” đã chứng tỏ sự coi thường đạo lý, truyền thống dân tộc, hắn đã xúc phạm đến danh dự, đạo lý, truyền thống dân tộc Việt Nam bao đời nay là uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Các vị anh hùng dân tộc mà Phan Văn Lợi nêu trên không chỉ là anh hùng dân tộc giải phóng dân tộc tạo ra cuộc sống hòa bình, hạnh phúc hôm nay được nhân dân ghi nhận và cả thế giới cũng phải cúi đầu, họ là những danh nhân của thế giới. Mặt khác với việc xúc phạm đến các vị anh hùng dân tộc đã cho thấy sự xúc phạm đến niềm tin của quần chúng nhân dân biết bao thế hệ người Việt trong và ngoài nước.
          Mặt khác, hành vi xúc phạm lạnh tụ của đất nước còn vi phạm vào quy định của Bộ luật hình sự. Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định
“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.”
Với những hành vi xuyên tạc sự thật, phỉ báng chính quyền, phỉ báng lãnh tụ của Phan Văn Lợi nhằm mục đích chống chính quyền đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Hành vi này cũng tương tự như hành vi xúc phạm Bác Hồ của đối tượng Trần Hoàng Phúc bị Cơ quan An ninh điều tra Công an thành phố Hà Nội khởi tố và bắt tạm giam về tội tuyên truyền chống Nhà nước hồi đầu tháng 7 vừa qua.
Với tư cách là một công dân nước Việt, tôi mong muốn các cơ quan chức năng sớm vào cuộc để điều tra, xử lý nghiêm Phan Văn Lợi với những hành vi tuyên truyền chống phá nhà nước để đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm minh, giữ gìn truyền thống, đạo lý dân tộc.
Công Mẫn

Trò bẩn tấn công Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc của Bùi Thanh Hiếu và Thoibao.de


Bàn về các lập luận của giới zân chủ bảo vệ nhóm ông Lê Đình Kình

Loa Phường

Mời các bạn xem video clip tư liệu về vụ việc tại Đồng Tâm, Mỹ Đức







Sau khi cơ quan chức năng TP Hà Nội công bố dự thảo Kết luận thanh tra vụ Đồng Tâm cho đại diện người dân Đồng tâm, nhóm khiếu kiện Đồng tâm (tức nhóm ông Lê Đình Kình), chính quyền Đồng Tâm và các xã liên quan để phản biện, góp ý với Dự thảo kết luận thanh tra trước khi ký ban hành, như một phản xạ và danh nghĩa phải “bảo vệ nạn nhân bị đàn áp bởi chính quyền” giới zân chủ cuội bu vào tìm mọi lý do để bảo vệ nhóm khiếu kiện Đồng Tâm và phủ nhận bản dự thảo Kết luận thanh tra, tạo cớ tấn công, vu cáo chính quyền “cướp” đất của dân, hạ uy tín chính quyền trong vụ này.

Khuynh hướng lập luận của giới zân chủ thể hiện trên một số hướng sau:
1. Lên án việc công bố Dự thảo này là đòn tấn công nhằm dọn đường dư luận bất lợi cho nhóm khiếu kiện ở Đồng Tâm; xa hơn, họ tố chính quyền Hà Nội đã vi phạm luật Thanh tra khi “tiết lộ bí mật” các tài liệu thanh tra khi công bố Dự thảo. Đại diện là Osin Huy Đức, Trịnh Anh Tuấn…rất hùng hồn và đắc thắng khi  ngỡ đã túm được gót chân Asin. Tiếc cho họ là chưa đọc/hiểu hết luật. Loa phường đã có bài phân tích chỉ rõ, căn cứ vào Khoản 2 Điều 30 Nghị định 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều trong Luật Thanh tra, UBND Hà Nội đã làm rất đúng luật, rất đúng quy trình
2. Khuynh hướng thứ 2 là ca ngợi sự minh mẫn của ông Lê Đình Kình, tuổi Đảng cũng như kinh nghiệm và hiểu biết đến tận “chân tơ kẽ tóc” đất Đồng Tâm của cụ Kình để phủ nhận bản Dự thảo Kết luận thanh tra. Họ cho rằng, người như cụ Kình không thể là “thế lực thù địch”, mà là người chống tham nhũng, chống bất công và đã từng làm được nhiều việc là tố quan tham địa phương đi tù… Đại diện khuynh hướng này là ông cựu đại tá công an Nguyễn Đăng Quang, con gái tướng Nguyễn Trọng Vĩnh là bà Nguyễn Nguyên Bình và bậu xậu các nhóm “nhân sỹ trí thức, đảng viên, cán bộ hưu trí” lâu nay vẫn đòi đa đảng, Đảng phải trả lại quyền lãnh đạo cho dân tộc, thay đổi Hiến pháp…với gương mặt thủ lĩnh như Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, nhà văn Phạm Đình Trọng, chuyên gia tổng cục 2 kiêm Chủ tịch Hội nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng đều là những điển hình giao du với các tổ chức phản động, khủng bố lưu vong mỗi bận xuất ngoại. Họ lấy “kinh nghiệm” và “danh dự” của mình ra để bảo vệ thanh danh cho ông Lê Đình Kình giống như họ đều “yêu nước”, đều vì Đảng, vì dân…nên không thể dối trá, dựng chuyện, bịa đặt, lừa dân được, đồng nghĩa với việc “khẳng định” chính quyền Hà Nội dựng chuyện cướp đất của dân đúng như lập luận của nhóm ông Lê Đình Kình!?!
3. Khuynh hướng thứ 3 là chỉ là những điểm “mâu thuẫn” giữa Dự thảo Kết luận thanh tra với tố cáo của nhóm ông Lê Đình Kình để phủ nhận bản Dự thảo Kết luận thanh tra cũng như mọi bản đồ chính thống, đo đạc khoa học cũng như các chứng từ pháp lý. Đại diện tiêu biểu là Nguyễn Anh Tuấn, đại diện tổ chức VOICE của Trịnh Hội (vốn bị công an Việt Nam và nạn nhân của Việt tân kết tội là tổ chức tay sai, trá hình, vòi bạch tuộc của Việt tân) ở Việt Nam. Anh này từng khuếch trương danh xưng “VOICE Việt Nam” trong những lần “từ thiện” ở miền Trung lúc lũ lụt hay khiếu kiện, biểu tình. Nguyễn Anh Tuấn có hàng loạt bài nhắm vào lên án quân đội lãng phí đất đai, chiếm dụng đất vàng của dân, câu kết với Viettel cướp đất để phục vu kinh doanh kiếm lời… Sau dự thảo kết luận thanh tra thì Nguyễn Anh Tuấn dành nhiều bài ra vẻ phân tích sự kiện “khách quan”, nhưng cách thức lập luận vẫn là đối chiếu giữa các bản đồ vẽ tay của nhóm ông Kình với các bản đồ thực địa, bản đồ quản lý đất đai của Đồng tâm qua các thời kỳ của chính quyền, từ đó gieo nghi ngờ, đưa ra các “mâu thuẫn” để phủ nhận dự thảo Kết luận thanh tra.
Bản dự thảo Kết luận thanh tra đã được công khai trên các phương tiện truyền thông đã được nhiều trang tin, blog, clip phân tích, mổ xẻ với căn cứ khoa học không còn gì để bàn cãi. Xem ra, giấy không thể gói được lửa. Loa Phường sẽ tiếp tục phân tích, chỉ ra “tình trạng leo lên lưng hổ” không thể xuống của nhóm ông Lê Đình Kình và đám zân chủ thua đau trong vụ này ra sao, mời các bạn tiếp tục theo dõi.

VÀI LỜI TRAO ĐỔI VỚI ÔNG NGUYỄN ĐĂNG QUANG VỀ CỤ KÌNH?

2017/07/04

RA THÔNG CÁO BÁO CHÍ: ĐAN VIỆN THIÊN AN HUẾ "CẢ VÚ LẤP MIỆNG"

Đài PTTH Thừa Thiên Huế lên tiếng vụ Đan viện Thiên An

Chiềng Chạ


Xung quanh vụ phá rừng, chiếm đất tại Thiên An của các tu sỹ đan viện Thiên An Huế có một sự lạ là trong khi các trang mạng xã hội lan truyền những nội dung mang tích kích động, cho rằng chính quyền đàn áp tôn giáo tại Đan viện Thiên An, xã Thủy Bằng, Thị xã Hương Thủy. Đặc biệt là sự việc xảy ra 77 vào ngày 29.6.2017 kéo theo cảnh xô xát khiến nhiều người bị thương.... 

Đan viện Thiên An sau đó cũng đã có bản Thông cáo về sự kiện theo kiểu "cả vú lấp miệng em" với với nhiều ngôn từ sai sự thật, xuyên tạc, vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo...




Trong khi báo chính thống của Thừa Thiên Huế gần như không đăng tải bất cứ thông tin nào về vụ việc. Sự im lặng củ báo chí chính thống đã đẩy sự việc được hiểu, tiếp cận theo một chiều. Đó cũng là lí do khiến ở một số nơi bất chấp sự thật, nhiều bà con giáo dân đã nghe lời kẻ xấu hiệp thông cầu nguyện cho các đan sỹ, tu viện của đan viện này, điển hình là tại Gx Vạn Lộc, xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn, Nghệ An.

Nhưng, thật may mới đây, Đài PTTH Thừa Thiên Huế đã có phóng sự về sự việc: 
Đã đến lúc báo chí chính thống cần mạnh dạn hơn trong tiếp cận, đưa tin những nôi dung liên quan tôn giáo. Đó cũng là cách để những trò đơm đặt được loại bỏ, đưa tôn giáo nói chung về với bản chất sơ khai và nguyên thủy của nó. Càng im lặng chỉ khiến cho đám đội lốt tôn giáo càng có cơ hội làm càn, nói bậy. 





Tôi đã không quá bất ngờ khi thấy Đan viện Thiên An ra thông cáo về sự việc xảy ra hôm 28/6/2017. 

Vẫn là câu chuyện cũ. Trong khi chính quyền có đầy đủ giấy tờ để chứng minh khu đất rừng là do mình quản lý, không phải đất đai có nguồn gốc giáo hội thì đan viện cứ một mực cho là của mình. Dù cho họ không có bất cứ chứng cứ nào về điều được khẳng định. 

Ngoài việc theo đuổi việc đòi lại khu đất một cách vô cớ để phục vụ mở rộng cơ sở Dòng thì các đan sỹ, tu sỹ tại đây đã không từ bất cứ một điều gì là không làm. Đoạn dưới đây được báo Công an Đà Nẵng cho thấy phần nào điều này: 


"Thiên An nằm ở phía nam TP Huế là một vùng đồi núi nhấp nhô với màu xanh bạt ngàn của rừng thông, là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách khi đến Huế. Quần sơn này gồm 140 ngọn đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 60ha. Điểm cao nhất chính là ngọn đồi có Đan viện Thiên An tọa lạc. Tuy nhiên, những ngày gần đây, nhiều người dân ở xã Thủy Bằng (TX Hương Thủy, TT-Huế) bức xúc phản ánh một số đối tượng xấu ở Đan viện Thiên An có hành vi đốn hạ rừng thông đặc dụng hàng chục năm tuổi- lá phổi xanh của TP để chiếm dụng đất trái phép.

Có mặt tại khu rừng đặc dụng tại khoảnh 5,6 tiểu khu 153 ở xã Thủy Bằng-gần Đan viện Thiên An, chúng tôi phát hiện có gần 100 cây thông trên 60 năm tuổi do Nhà nước quản lý đã bị đốn hạ, chặt phá không thương tiếc. Nhiều cây vừa mới đốn hạ, gốc vẫn còn chảy nhựa. Nhiều cây khác cũng đang trong tình trạng bị chết héo. Theo CAX Thủy Bằng, qua điều tra, xác minh được biết, một số đối tượng xấu đã khoan lỗ ở thân cây rồi đổ hóa chất vào trong, đẽo vỏ thân cây rồi nhóm lửa đốt quanh gốc cây... với mục đích cho cây mau chết để kiếm cớ đốn hạ. Với những thủ đoạn này khiến cho nhiều cây thông dù lâu năm, to lớn, bám rễ sâu vào lòng đất nhưng vẫn bị mục ruỗng, rồi dần chết héo. Sau đó, vào ban đêm, một số đối tượng ở Đan viện đã thẳng tay cưa đổ và câu kết số đối tượng khác đưa đi tẩu tán. Còn những gốc cây thông sót lại, chúng dùng xe múc đào bật gốc, nhằm lấn chiếm đất và hòng che đậy việc phá hoại môi trường sinh thái, cảnh quan tự nhiên. Một số đối tượng còn sử dụng xe cơ giới, múc đất, phá vỡ đường dân sinh và đường ranh phòng chống cháy rừng ảnh hưởng đến việc đi lại hàng ngày của người dân địa phương và công tác phòng cháy chữa cháy, nhất là trong mùa hanh khô".

Sự việc xảy ra hôm 28/6/2017 xuất phát từ trò bỉ ổi vừa được nói đến. Rất đông tu sỹ đã có mặt tại khu đất để đốn hạ và khoan lỗ ở thân cây rồi đổ hóa chất vào trong, đẽo vỏ thân cây rồi nhóm lửa đốt quanh gốc cây... với mục đích cho cây mau chết để kiếm cớ đốn hạ. 

Và đương nhiên, việc làm của các đan sỹ, tu sỹ đã khiến người dân, chính quyền tại đây bất bình. Rất đông người dân, đại diện của chính quyền đã có mặt để phát giác hành động này! Như những kẻ ăn trộm cố công chùi mép, thay vì cúi đầu nhận tội thì họ lại tìm cách chống trả; cố tình gây hấn đề biến/chuyển hóa sự việc này thành sự việc khác để chối tội và nhân cơ hội tố cáo chính quyền. 

Việc gì đến đã đến, quá trình xô đẩy giữa 2 bên, một số tu sỹ và kể cả người dân và đại diện chính quyền đã bị thương. Cũng chỉ chờ có vậy, các tu sỹ cùng một số giáo dân sinh sống lân cận đã lớn tiếng cáo buộc chính quyền đàn áp.... 

Bản thông cáo được ra sau đó vì thế không có gì là quá lạ. Đó là cách dùng truyền thông để cả vú lấp miệng thiên hạ hòng chối tội. Thế mới biết, những kẻ khốn nạn bao giờ cũng là những kẻ hiếu chiến nhất! 

Hãy chờ xem dư luận sẽ phán xử gì đối với bản Thông cáo tội lỗi và sai sự thật này! 

An Chiến