2013/04/27

Cùng quẫn lý lẽ của một con cừu


Vừa mắt nhắm mắt mở bước vào ngày đầu tuần thì nhân được một "đơn đặt hàng" của độc giả có cái nickname khá rắc rối tan12ckt1980"Đề nghị bạn Thanh Tùng nghiên cứu và có bài viết phản bác lại cái này cho anh em nhé: Sự cùng quẫn của tờ báo Đảng- Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh.". Nhấn vào link thì gặp "bà buôn cải", ngỡ đâu rằng anh chàng Ba sàm sau khi trang nhà mất thiêng nên lưu lạc sang đây đánh quả nhưng hóa ra không phải vậy. Đây là một anh chàng Nguyễn Hữu Vinh khác, xinh giai hơn và có cái "tai tồ" (title) JB gắn đằng trước tên chứ không phải "BS" như anh chàng kia. Thú thật trước giờ tôi chỉ thấy giới trẻ trên mạng hay vung vít 2 chữ "BJ" chứ "JB" thì tôi chẳng hiểu là gì cả, bạn nào biết thì giải thích giùm nhé! Đọc thêm một chút thì ngộ ra rằng JB này là một giáo dân đang đăng đàn hồ hởi chê bai, "vạch mặt" tờ báo Nhân dân. Tôi tự hỏi, báo Nhân dân là cơ quan ngôn luận của ĐCSVN, một trong những tờ báo lớn nhất Việt Nam với đội ngũ nhà báo dày dạn, bản lĩnh thì sao lại để hình ảnh của mình bị bôi xấu trên báo nước ngoài (dù rằng là loại báo "đâm bị thóc chọc bị gạo") mà không phản ứng gì? sao bạn tan12ckt1980 không liên hệ với báo Nhân dân để nhắc nhở họ bảo vệ uy tín của mình mà lại "đặt hàng" tôi? Tuy nhiên đọc xong bài viết thì tôi cũng hiểu phần nào lý do: thứ nhất, bài viết đúng là thể hiện tư duy của một "con cừu" nên các nhà báo có lẽ chẳng thèm phản biện mà xem đó như câu chuyện hài làm quà mỗi dịp trà dư tửu hậu; thứ hai, "bà buôn cải" đăng bài bôi xấu báo khác nhưng thòng cái câu "Bài viết thể hiện quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả" để phủi trách nhiệm. Báo chí mà lẩn như lươn thế thì cần quái gì thằng biên tập nữa?
Thôi thì bạn đọc đã có lời, bài viết cũng đã mất công đọc, lại thêm món "lý luận của cừu" dường như vẫn còn thiếu trên blog này nên tôi sẽ cùng các bạn tìm hiểu xem "mùi vị" của nó thế nào.

Con chiên Vinh "văng miểng"

Chắc hẳn các bạn cũng như tôi đã từng nghe đến nhàm chán cái câu "Đại hội / kế hoạch / hội thảo / chiến dịch,.. đã thành công tốt đẹp" mà mấy cậu thư ký các cơ quan nhà nước "nhét vào mồm" các sếp?! Căn bệnh khoa trương thành tích của bộ máy hành chính có "công lao" không nhỏ từ các vị "quân sư quạt máy" này. Nhưng nếu các bạn mà xem qua bài viết của con chiên JB Nguyễn Hữu Vinh thì hẳn sẽ cười đến té ghế vì so với đẳng cấp "chém gió" của anh ấy, đám "quân sư" kia chỉ dám đứng đằng xa mà nhìn. Trong bản gốc tại blog của mình, anh ta viết về bản góp ý sửa đổi hiến pháp của hội đồng giám mục Việt Nam như sau:
"Như tiếng sấm giữa trời quang, bản văn của Hội Đồng Giám mục Việt Nam nhận định và góp ý vào bản Hiến pháp gửi tới Quốc hội đã làm rung chuyển nhiều thành phần trong xã hội. Không chỉ với người Công giáo Việt Nam, mà ngay cả với những công dân quan tâm đến tình hình đất nước, lo lắng cho tiền đồ dân tộc cảm thấy hân hoan, phấn khởi. Với bản văn mạch lạc, sáng suốt và đúng trọng tâm những gì đất nước này, dân tộc này đang cần để vượt qua bế tắc, tiến bước trên con đường phát triển. Trước đó, bản Kiến nghị của 72 nhân sĩ trí thức đã gây một tiếng vang lớn báo hiệu dân tộc Việt Nam đã có những dấu hiệu chuyển mình. Cơn chuyển mình vật vã, đau đớn để vượt qua sự sợ hãi vốn tạo thành thói quen của cả xã hội, thành phản xạ của mỗi công dân Việt Nam."
Ôi, đẳng cấp cỡ này ngỡ đâu chỉ còn có ở đám rận vàng bên "mẫu quốc", ngày đêm tung hô cho cái gọi là "quân lực VNCH vô địch" để tự ám thị mình dù đã chạy cách xa nửa vòng trái đất khỏi quê hương và gần 40 năm kể từ tháng 4 hào hùng năm 1975 ấy. Các bạn đọc của tôi, các bạn có thấy mình bị "rung chuyển" không vậy? Riêng tôi thì có, chỉ có điều là "rung rốn vì cười"!!! Có lẽ chúng ta nên tạm gọi anh chàng này là Vinh "văng miểng" để phân biệt với anh Vinh "sàm" kia.

Thế rồi, JB cho rằng uy lực của "tiếng sấm giữa trời quang" ấy đã khiến cho "nhà cầm quyền Hà Nội lúng túng và hoảng hốt", dẫn đến những việc sử dụng "đòn bẩn", "dựng chuyện và bịa đặt", hệ thống truyền thông của Đảng và nhà nước, cụ thể là báo Nhân dân phải "cùng quẫn". Ôi, nghe như thể vận mệnh chế độ đang đứng bên bờ vực của sự tồn vong vậy! Hãy xem những lý lẽ của con chiên này ra sao mà lại hùng hổ nổ nguyên băng hoành tráng đến thế.

Thực hư "những đòn bẩn"

"Đòn bẩn" thứ nhất, theo JB là "kéo dài thời gian góp ý đến cuối tháng 9/2013 thay vì kết thúc trong tháng Ba" vì "sau khi chi 'hàng đống tiền dân' từ ngân sách, nhà nước sẽ thu được một số lượng chữ ký áp đảo và coi như “đó là nguyện vọng nhân dân”. Trước giờ tôi chỉ biết rằng để có lợi thế thì người ta phải tổ chức trưng cầu ý kiến trong thời gian thật ngắn nhằm hạn chế những ý kiến chống đối (đêm dài lắm mộng!) chứ chẳng ai lại tự dưng kéo dài thời gian cho đối thủ nằm nghĩ ngợi thêm chiêu trò hay lôi kéo thêm nhiều người khác cả. "Chi ngân sách" thì cũng đã chi hầu hết trong 3 tháng đầu rồi, 6 tháng tiếp theo chỉ nằm chờ xem có thêm ý kiến nào khác thì bổ sung vào chứ liên quan gì đến việc "nhà nước sẽ thu một số lượng chữ ký áp đảo"? Người thông minh thì phải lợi dụng thời gian kéo dài này mà tuyên truyền ý tưởng của mình đến đông đảo người dân hơn nữa để lôi kéo thêm đồng minh về phía mình chứ sao lại than thở vì điều đó? Phải chăng khả năng càn quấy của JB và các đồng đạo chỉ đến vậy, để lâu sợ người ta phát hiện ra bản chất của mình hoặc "phong trào" sẽ "mất lửa"? Thật đúng là tư duy của cừu khác hẳn người thường!

"Đòn bẩn" thứ hai mà JB "tố" là "hệ thống tuyên truyền, truyền thông nhà nước còn 'lôi đám nhân sĩ, trí thức' ra 'đánh hội đồng' trước công luận nhưng lại không dám đưa ra cho người dân xem họ, những trí thức, nhân sỹ, đã thực sự nói gì?". Câu này tự thân nó đã mâu thuẫn với nhau, chẳng khác nào bảo đưa 1 bị cáo ra trước tòa nhưng viện kiểm sát lại không cho người tham gia phiên tòa biết bị cáo đó bị truy tố vì tội gì. Tôi thậm chí đôi khi cũng bực với cái hệ thống tuyên truyền của nước mình, họ phản bác lại những luận điệu sai trái của đám "nhân sĩ trí thức" này nhưng chẳng "dám" nêu thẳng tên tuổi của họ ra mà chỉ "đánh" vào cái lý luận ngu ngơ của họ. Rõ là nhân đạo không phải lối! Đám "nhân sĩ trí thức" đó là những ai, nói những gì thì nhan nhản trên mạng, thậm chí họ là đối tượng được ưu ái trong blog Đôi mắt, chỉ khác cái là ở đây họ được gọi đúng với bản chất của họ, "rận sỹ chấy thức".

Sau khi cho rằng chính quyền đã ra 2 "đòn bẩn", con chiên này tiếp tục "tự sướng" về cộng đồng Ki tô giáo của anh ta: "Họ cũng thừa biết xưa nay, giáo dân Công giáo luôn đồng lòng, nhất trí với Hội đồng Giám mục một cách hầu như là tuyệt đối trong những vấn đề cơ bản đối với vận mệnh giáo hội và đất nước, vì con người. Do vậy, tiếng nói của Hội đồng luôn được sự ủng hộ to lớn. Chính vì thế, đánh vào khối này còn khó hơn 'đục khối bê-tông', càng đánh trực diện vào nó, càng khơi động tinh thần đoàn kết, hiệp thông. Điều đó đã được thử thách suốt mấy chục năm nay dưới chế độ Cộng sản nói riêng và suốt mấy trăm năm, qua nhiều thời kỳ lịch sử khốc liệt với giáo hội Công giáo. Do vậy, họ dùng nhiều chiêu trò khác tinh vi hơn nhưng cũng được cho là 'bẩn thỉu' hơn.".
Đúng, trước giờ "giáo dân Công giáo luôn đồng lòng, nhất trí với Hội đồng Giám mục một cách hầu như là tuyệt đối", đó là điều ai cũng biết. Thậm chí dùng từ "đồng lòng, nhất trí" là chưa thể hiện rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dân và hội đồng giám mục, mà phải nói là "phục tùng, tuân thủ, cung cúc nghe lời". Đàn cừu thì làm sao có chuyện "đồng lòng, nhất trí" với chủ chăn được?! Và người ta cũng biết rằng cái "Hội đồng giám mục" ấy lại phải "phục tùng, tuân thủ, cung cúc nghe lời" các thế lực khác ngoài lãnh thổ Việt Nam, cụ thể là tòa thánh Vatican. Nhưng đó là một câu chuyện khác mà tôi sẽ kể sau này nếu có dịp. Câu hỏi vui cho mọi người suy nghĩ là: tại sao những người đã tự nguyện làm cừu cho người khác chăn mà lại tích cực "đấu tranh" cho "nhân quyền" vậy?

Tự tin với cái "khối bê tông" của mình, JB cho rằng chính quyền và hệ thống truyền thông của họ phải sử dụng những chiêu "bẩn thỉu hơn" nhằm "đục thủng khối bê tông" ấy. Những "chiêu bẩn" đó là: dùng người của Phật Giáo, Ki tô giáo để tuyên truyền cho chính sách của Đảng và Nhà nước; đội lốt các trang web Phật giáo để chống Ki tô giáo.

Con chiên này nói rằng: "Nếu như có một Hòa Thượng Thích Quảng Độ không được nhà nước ưa thích, thì lập tức có một vị Hòa thượng Thích Thanh Tứ lên diễn đàn Quốc hội 'mạt sát' được truyền hình cho cả nước xem. Nếu nhà nước không thích Bát Nhã, lập tức có các “ông sư, phật tử” nơi khác được điều đến thi tài trấn áp buộc họ phải rời nơi cứ trú. Nếu nhà nước muốn các phật tử vâng lời đảng, giữ nguyên nội dung điều 4 của Hiến pháp 1992, duy trì sự cai trị của Đảng CSVN và kiên quyết xóa bỏ quyền tư hữu đất đai của người dân, lập tức có các nhà sư như Thượng Tọa Thích Đức Thiện và Thích Thanh Dũng lên truyền hình tuyên truyền hộ về công lao của Đảng và rằng “xác định quyền tư hữu đất đai là trái với tinh thần từ bi của Đức Phật và bác ái của Chúa Giêsu”.
Trong tay của Đảng, dường như có thể có đủ mọi quân bài và mọi thành phần nhằm thực hiện đầy đủ “sự lãnh đạo sáng suốt và tuyệt đối”.

Thật là buồn cười khi JB cho rằng việc nhà nước sử dụng những người trong tôn giáo để nói chuyện về những vấn đề liên quan đến giáo phái của mình là việc "bẩn thỉu". Có lẽ đầu óc cừu nên nghĩ vậy. Là một con người thì phải biết đó là cách giải quyết hợp tình hợp lý nhất. Mọi người, dù là giáo dân Ki tô giáo, Hồi giáo, Phật giáo,.. nếu đang sống trên đất nước này, là người Việt Nam thì trước hết họ là những công dân của đất nước. Là công dân thì họ phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật (có lẽ trừ những giáo dân như JB là tự cho mình cái quyền làm trái điều hiển nhiên đó). Vậy thì khi nhà nước cần triển khai chính sách, thực thi một công vụ nào đó có liên quan đến một tôn giáo, các vị chức sắc tôn giáo đứng ra làm cầu nối giữa chính quyền và giáo dân là cực kỳ hợp lý và hiệu quả. Có lẽ những giáo dân như JB cho rằng nhà nước phải dùng xe  tăng và lưỡi lê như Ngô Đình Diệm xưa kia đàn áp Phật giáo thì mới là "chiêu sạch"?!

Tư duy con cừu

Mang theo cái tư duy ngược đời đó, Vinh "văng miểng" chụp mũ tất cả những người Ki tô giáo có những bài viết, phát biểu không theo ý mình trên báo đài là "giả mạo", "dàn dựng",... Chưa cần biết cáo buộc đó là đúng hay sai nhưng nếu là một người hiểu biết, nhất là người "nhân danh dân chủ" thì phải hiểu một điều cơ bản rằng: Ai nói, ai viết không quan trọng mà điều quan trọng là những gì người ta nói, người ta viết đấy là đúng hay sai. Giả sử bây giờ giáo hoàng Francis có nói với tôi rằng "JB Vinh thực sự là một con cừu" thì tôi vẫn bảo đó là sai vì anh ta rõ ràng là không có sừng, không có lông xù, không đi bằng 4 chân dù rằng có thể anh ta có tư duy của một con cừu (bài viết này gọi "con cừu", "con chiên" là tôn trọng sở nguyện của JB). Nhưng xem ra đối với những người vẫn tin rằng "mặt trời quay quanh trái đất" thì điều đó là đòi hỏi quá sức. Bởi lẽ đó, anh ta sẵn sàng cho tất cả những điều người khác nói mà không hợp ý anh ta và chủ chăn của anh ta là "ngây ngô" nên "không phải mất thời giờ để bàn về chuyện liệu những người như tác giả bài viết này có trình độ về lý luận hoặc hiểu biết ra sao". Một trong những điều "ngây ngô" như anh ta quan niệm là: Đơn cử, tác giả của bài báo được tờ báo Nhân Dân của Đảng trân trọng, viết những câu như: “Tôi không biết chủ nghĩa Mác – Lê-nin là chủ nghĩa vô thần”. Con chiên này cho rằng bất cứ ai không biết "chủ nghĩa Mác – Lê-nin là chủ nghĩa vô thần” thì đều là "ngây ngô"! Vậy tôi sẽ phân tích để xem kẻ nào mới thực sự là "ngây ngô".

Cái điều "cộng sản vô thần" mà các giáo dân như JB mang ra hù dọa lẫn nhau thực chất là một trong những chiêu trò tâm lý chiến của Mỹ ngụy và Ki tô giáo nhồi nhét cho con chiên từ hàng chục năm trước để tạo ra sự đối lập giữa cộng sản và tôn giáo nhằm tách họ ra khỏi sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Một người có suy nghĩ bình thường chí ít cũng phải đi tìm hiểu xem câu đó nghĩa là gì, đúng hay sai, từ đâu ra,.. chứ không nhắm mắt nghe theo mù quáng nhưng đàn cừu thì chỉ cần biết cứ chủ chăn nói ra thì là chân lý rồi. Một trong những lý lẽ mà những kẻ như JB hay rêu rao là Marx dạy rằng "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân" để từ đó suy diễn ra "tôn giáo là tệ nạn cần dẹp bỏ như thuốc phiện". Đây là câu được cắt xén (nghề của "chàng" mà!) từ Lời nói đầu cuốn "Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hegel". Nguyên văn Marx viết trong sách như sau:
"Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân".
Người có khả năng đọc hiểu sẽ dễ dàng hiểu rằng ở đây Marx muốn nhấn mạnh đến chức năng xã hội và tính 2 mặt của tôn giáo: là "thuốc giảm đau" trước những vấn đề bức bối của cuộc sống nghèo nàn và bị áp bức nhưng cũng là "chất gây nghiện" cho những người lạm dụng, khiến họ quên đi thực tại và cam chịu thay vì đấu tranh cho quyền lợi của mình. Như vậy, chính những kẻ lợi dụng tôn giáo để bịt mắt nhân dân nhằm phục vụ cho lợi ích của riêng mình mới chính là kẻ thù của tôn giáo đích thực, nhân quyền đích thực. Chủ nghĩa cộng sản (CNXH khoa học) như mọi ngành khoa học tiến bộ khác thì đều là "vô thần", tức không tin hoặc không lấy yếu tố thần thánh siêu nhiên làm căn cứ cho nghiên cứu của mình, chứ không có nghĩa là "kẻ thù" của tôn giáo. Trong một đất nước thì có người theo đạo này, đạo kia và người không theo tôn giáo nào cả (lương dân). Vậy theo cái lý lẽ của con chiên JB thì những lương dân ấy, tức người "vô thần", cũng là kẻ thù của tôn giáo à? Do đó, chỉ có những kẻ lợi dụng tôn giáo, sợ ánh sáng khoa học làm mọi người nhận ra bản chất của mình nên mới cuống quýt chụp mũ cho khoa học (CNXHKH, thuyết tiến hóa của Darwin,...) là kẻ thù của mình với ảo tưởng kêu gọi những cuộc thánh chiến vào thành trì của khoa học. Nhưng khổ nỗi, "thời oanh liệt" nay còn đâu!

CNCS của Marx là một ngành khoa học nghiên cứu về bản chất, sự vận động của kinh tế - chính trị và xã hội loài người, từ đó đưa ra đường lối, phương thức quản lý, xây dựng xã hội. Điều này là hiển nhiên đối với con người hiểu biết, dù đồng tình hay không với những quan điểm của Marx. Vậy mà con cừu (cứ cho là có hiểu biết) JB lại quan niệm rằng "trẻ con cũng không khỏi phải 'bật cười' về" nhận thức "chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ tư tưởng quản lý xã hội và đảng cầm quyền chỉ lấy tư tưởng quản lý xã hội chứ không “đóng khung” tư tưởng của người dân". Thử hỏi "chế độ cộng sản vô thần" này có bắt các con chiên phải từ bỏ chủ chăn của mình để trở về làm con người "vô thần" không hay chỉ thấy các giáo dân (theo lệnh của chủ chăn) sử dụng hôn nhân để ép buộc người ngoại đạo gia nhập đạo mình, sử dụng tình cảm huyết thống để ngăn cản những người không theo ý chủ chăn? Vậy ai là kẻ thực sự "đóng khung tư tưởng" người dân?

Ai là giáo gian?

Trong bài viết của mình, Vinh "văng miểng" cáo buộc một số người là giả mạo giáo dân, do hệ thống truyền thông của nhà nước "dàn dựng" bằng những lời lẽ chung chung như "bị giáo dân 'bóc mẽ', sự bịa đặt bị phê phán là 'trắng trợn nhớp nháp' này đã bị 'vạch trần' trước muôn dân và dư luận quốc tế", "gán ghép sượng sùng đã bị lật tẩy nhanh chóng sau đó". Nếu chỉ tư duy một cách logic thì cũng hiểu rằng những giáo dân mà muốn lách ra khỏi những giáo lý và áp đặt của chủ chăn để thể hiện chính kiến của mình (khác với mong muốn của chủ chăn và những con chiên như JB) thì cũng phải chịu rất nhiều áp lực từ gia đình, công hội, đồng đạo (ngày xưa còn phải đối mặt với giàn thiêu nữa) nên họ phải bí mật là điểu đương nhiên. Nhưng khi có những người can đảm vượt qua những rào cản đó thì JB lại cho rằng họ là những kẻ "mạo danh" hoặc "đầu óc không bình thường". Đó là 2 trường hợp gần đây nhất mà chúng ta sẽ xem xét ngay sau đây.

Trường hợp 1 - ông Nguyễn Quốc Hiếu: Vinh "văng miểng" viết rằng "Đài truyền hình dùng cách dựng ra một “Linh mục ở Bắc Ninh”. Màn kịch này nhanh chóng bị giáo dân 'bóc mẽ', sự bịa đặt bị phê phán là 'trắng trợn nhớp nháp' này đã bị 'vạch trần' trước muôn dân và dư luận quốc tế".
Sự thực là thế nào?
Chương trình thời sự tối ngày 26 tháng 3 năm 2013 của đài truyền hình Trung ương VTV1 có đoạn phóng sự "Chức sắc tôn giáo góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992", trong đó phỏng vấn ông Nguyễn Quốc Hiếu, với dòng chữ chú thích "Linh mục Nguyễn Quốc Hiếu, Chủ tịch Ủy ban đoàn kết Công giáo tỉnh Bắc Ninh". Hai ngày sau, tòa giám mục Bắc Ninh ra thông báo xác nhận "Giáo phận Bắc Ninh Không Có Linh mục Nguyễn Quốc Hiếu". Vậy là các con chiên dạng như JB vặn loa hết cỡ để lu loa với thiên hạ rằng "VTV dàn dựng linh mục ở Bắc Ninh". Thiếu điều bắn pháo hoa ăn mừng vì "chiến tích" này! Nhưng bản chất sự việc có đúng như họ nói vậy không? Bất cứ ai ngoại đạo mà không có hứng thú tìm hiểu về ngóc ngách Ki tô giáo thì cũng chẳng để ý đến cha cố, cha xứ, linh mục, cha đạo, phó tế, giám mục,.. khác nhau thế nào. Do đó, việc ông Nguyễn Quốc Hiếu được chú thích là "linh mục" thì cũng có thể hiểu là do sự hiểu biết có hạn của nhân viên nhà đài về cơ cấu giáo hội, nhất là khi ông này có cái chức danh khá kêu "Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết công giáo tỉnh Bắc Ninh". Chức danh này của ông Hiếu là thật và ông Hiếu cũng là một người theo Ki tô giáo nên không thể nói nhà đài "dựng" ông ấy lên.


Vậy "Ủy ban đoàn kết công giáo" là gì mà tại sao một người có chức danh như vậy lại bị con chiên JB và chủ chăn của mình "tẩy chay"? Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có mục đích "đoàn kết rộng rãi mọi người Công giáo, cùng toàn dân xây dựng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình, được xác quyết theo tinh thần Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” và nhiều Thư chung sau đó", trong đó có những phong trào thi đua "Kính Chúa - yêu nước" và "sống tốt đời, đẹp đạo...". Tiền thân của tổ chức này là Ủy ban Liên lạc những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc, Yêu hòa bình, gọi tắt là Ủy ban Liên lạc Công giáo toàn quốc, là tập hợp những người Công giáo "dám" chống lại sắc chỉ "không cộng tác với cộng sản" của Giáo hoàng Pio XII (1949) để cùng nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp (trong khi phần còn lại theo Pháp chống lại Việt Minh!). Trong kháng chiến chống Mỹ, tại miền Nam cũng có một tổ chức tương tự là Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước, sát cánh cùng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, chống lại ngụy quyền Việt Nam cộng hòa (một chính phủ mà chóp bu cũng toàn là con chiên của giáo hội La Mã). Ủy ban Đoàn kết tôn giáo Việt Nam hiện nay là tổ chức được hình thành dựa trên sự hợp nhất của 2 tổ chức công giáo yêu nước trên (1983).
Như vậy có thể hiểu được vì sao mà thành phần "chỉ yêu nước Chúa" như JB lại hằn học với những giáo dân chân chính "kính Chúa - yêu nước Việt", rêu rao rằng Ủy ban Đoàn kết Công giáo là "cánh tay nối dài của Cộng sản" mà không thèm quan tâm đến việc quê cha đất tổ mình đã có từ ngàn đời trước khi "cánh tay nối dài của giáo hội La Mã" vươn đến đây. Miệng họ leo lẻo "cộng sản vô thần" nhưng cũng chính họ chụp mũ những người công giáo chân chính là "tay sai cộng sản". Thật tình tôi không hiểu vì sao cái "chế độ cộng sản tàn bạo, vô thần" này lại cứ để cho những kẻ có truyền thống chống tổ quốc, hại nhân dân như vậy được yên ổn "hành nghề chống chế độ" như vậy? Thật là "tàn bạo" quá đi!

Sau khi đọc bài viết này của ông Nghĩa, con chiên "văng miểng" cho rằng "buộc phải nghi ngờ về sức khỏe tâm thần của ông" vì"trong đất nước Việt Nam này, hẳn không ai không biết (ngoại trừ những người cộng sản vô thần) rằng chưa có một giáo dân nào dám hỗn xược xưng “tôi” trước một linh mục chứ chưa nói đến với Giám mục hoặc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Điều đó không chỉ là quy định, mà là sự tôn kính tối thiểu cần có đã thấm vào máu của mỗi giáo dân" (sic) và "ở Giáo hội Công giáo không có quan niệm hỗn mang kiểu “đồng chí cha, đồng chí con, đồng chí vợ, đồng chí chồng”. Bức thư phần đầu xưng “Tôi”, phần sau xưng “Con” như một sự 'hoang tưởng' của một người có đầu óc không bình thường".
Đọc qua những dòng trên, quả thật tôi cũng "buộc phải nghi ngờ về sức khỏe tâm thần của" ông chiên JB, bởi lẽ anh ta đã "hoang tưởng" đến mức cho rằng "trong đất nước Việt Nam này, ngoại trừ những người cộng sản vô thần" thì ai cũng phải biết về lề lối xưng hô, tôn ti trật tự của giáo hội. Không biết Phật giáo, Cao Đài, Hồi giáo, Hòa Hảo,... có "huấn luyện" giáo dân của họ về điều đó hay không nhưng tôi thấy lương dân như tôi cũng không phải là ai cũng biết điều mà anh ta cho rằng "không ai không biết" ấy. Đương nhiên là trong giáo hội công giáo sẽ không có cái danh xưng "đồng chí cha, đồng chí con, đồng chí vợ, đồng chí chồng" mà chỉ có "cừu cha, cừu con, cừu vợ, cừu chồng" nên JB tỏ ra rất phấn khích khi đọc được chữ "tôi" trong bài viết của ông Nguyễn Trọng Nghĩa. Nếu chịu khó suy nghĩ và chịu khó hiểu thì chúng ta thấy rằng bài viết này chia làm 2 phần: phần trình bày ý kiến của ông Nghĩa về bản góp ý của Hội đồng giám mục gửi cho Sách hiếm nên xưng "tôi" và một phần gửi gắm tới các vị chức sắc giáo hội để giải thích cho hành vi "phạm thượng" này trong trường hợp họ đọc được bài viết nên xưng "con" (mục "Tại Sao Phải Góp Ý Bản Góp Ý Của Các Vị Giám Mục").
Để củng cố giả thiết của mình, anh Vinh "văng miểng" mời thêm vài "diễn viên quần chúng" ra làm bình phong: "Người dân địa phương cho biết ông có hiện tượng đầu óc bị 'man mát', hay không bình thường về thần kinh, sức khỏe tâm thần. Gặp gỡ linh mục Chánh xứ, ông nội của ông Nghĩa đã than phiền về sự mâu thuẫn giữa ông Nghĩa với ông nội và cha mẹ ruột, người ông nội cũng cho hay đã không gặp gỡ và tỏ ra lo lắng cho ông Nghĩa về mặt nhân cách và đạo đức."
rồi reo lên sung sướng:
"Thế có vẻ là đã quá rõ. Một người không còn giữ các lề luật Giáo hội, không tham gia, không còn liên hệ với giáo hội đã chục năm nay, bỗng nhiên được Báo Nhân Dân gọi là “Công dân theo Thiên Chúa giáo”?"

Thật là "cười rung cả rún" với con chiên "văng miểng" này. Tác giả bài viết tự xưng là "giáo dân giáo xứ Cao Lãnh", báo Nhân dân đăng là "Công dân theo Thiên chúa giáo"  thì có gì là sai mà con chiên JB cứ làm như thể tờ báo này tự ý gắn cái mác đó cho tác giả vậy. Giả sử cáo buộc của JB rằng ông Nghĩa đã "không còn giữ các lề luật Giáo hội, không tham gia, không còn liên hệ với giáo hội đã chục năm nay" là đúng thì không lẽ tờ báo này phải có trách nhiệm về Cao Lãnh để điều tra xem tác giả có phải là một giáo dân hay không thì mới được đăng bài? Không lẽ danh xưng "giáo dân" là một cái gì đó ghê gớm đến mức phải được xác minh trước khi ý kiến của họ được đưa ra cộng đồng? Ôi thế thì còn gì là "tự do ngôn luận" nữa!!!
Chưa hết, đến cả việc cho rằng ông Nghĩa "đã không còn liên hệ, không tuân phục những nguyên tắc, quy định" "nghĩa là anh đã tự đứng ra ngoài hàng ngũ công giáo" thì xem ra con chiên này đã tự ý tạo ra giáo luật cho riêng mình. Theo giáo luật của Giáo hội Ki-tô giáo La Mã hiện nay thì một giáo dân chỉ bị vạ tuyệt thông khi:
  1. Người bội giáo, lạc giáo hay ly giáo, sẽ bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết.
  2. Ai ném bỏ Bánh Thánh, lấy hoặc giữ với mục đích phạm thánh, bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh.
  3. Người nào hành hung Đức Thánh Cha sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh.
  4. Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả, sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết.
  5. Tư tế hành động ngược lại các quy định ở điều 977, sẽ bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh.
  6. Linh mục giải tội nào vi phạm trực tiếp ấn bí tích, phải bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh.
  7. Giám mục nào không có ủy nhiệm thư giáo hoàng mà phong chức giám mục cho người khác, cũng như người nào được thụ phong do giám mục ấy sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh.
Vậy thì, với những gì mà JB kể lể, rõ ràng ông Nguyễn Trọng Nghĩa vẫn chưa từng bị rút phép thông công bởi giáo hội, hay nói cách khác là ông vẫn đang trong tình trạng "hiệp thông" với giáo hội. Còn tại sao ông Nghĩa không liên hệ với giáo hội hoặc mâu thuẫn với gia đình (nếu là thật) thì hoàn toàn dễ hiểu bởi những gì ông ấy đã làm, đã thể hiện (với khát khao không là một con chiên mù quáng) là trái với chủ trương "đóng khung tư tưởng cừu" của giáo hội. Mà trái với ý của những người nhân danh Chúa thì đương nhiên phải là những kẻ "đầu óc bị 'man mát', hay không bình thường về thần kinh, sức khỏe tâm thần" chứ còn gì!!! Nếu "bình thường" như các con chiên khác thì ông Nghĩa đã không có những câu hỏi "phạm thượng", "móc họng" các bề trên thế này: Khi Đức Tin Bị Thử Thách Ta Phải Làm Gì? Vì không "bình thường" như các con chiên khác nên ông Nghĩa không thể an phận đờ đẫn vểnh tai mà nghe những giáo huấn thế này:
Trích tuyên ngôn chính thức của đạo Tin Lành tại Việt Nam.
1) “ Mọi giao ước mà các thế hệ trước của dân tộc Việt Nam đã lập với (quỉ – tqd) Sa-tan, từ nay đã bị hủy bỏ hoàn toàn. Amen”.
2) “Nhân danh Đức Chúa Giê-xu Christ, chúng tôi công bố: nước Việt Nam và mọi người Việt Nam, vốn là tài sản của Đức Chúa Trời, nay đã được dâng trả lại cho Ngài, tùy ý Ngài sử dụng cho vinh hiển của Ngài”.
3) “…với tư cách làm chức thầy tế lễ của Đức Chúa Trời, một dân thánh biệt riêng cho Ngài, ngay bây giờ hiệp làm một như một người, đại diện cho thân thể của Đấng Christ tại Việt Nam, đại diện cho dân tộc Việt Nam ở trước mặt Đức Chúa Trời”.

Sách hiếm, Giao điểm là tay sai của Cộng sản?

Mũi nhọn cuối cùng của con chiên "văng miểng" chĩa vào hệ thống truyền thông của Nhà nước và báo Nhân dân là cáo buộc 2 trang web Sách hiếm và Giao điểm là công cụ của Nhà nước để "mang danh Phật Giáo để đâm lưng Công giáo". Cơ sở của cáo buộc này là "một 'văn bản yêu cầu' Tổng cục Hải Quan Việt Nam 'hỗ trợ' một Việt Kiều đưa 420 quyển tạp chí 'Giao Điểm' được in trong nước đưa ra nước ngoài để 'phục vụ tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta'". Đây là một chuyện đã xảy ra cách đây 5 năm và đã được các bên liên quan làm rõ tại đây: Phỏng Vấn Ông Bùi Hồng Quang Về Một Văn Thư của Cục An Ninh. Không biết có phải JB nghĩ rằng chuyện đã quá lâu, không ai biết nên "khai quật" lên để "nhát ma" thiên hạ?
Vì chuyện đã quá lâu và đã có giải thích của người trong cuộc nên tôi chỉ điểm sơ qua thế này:
- Giả sử những chứng từ kia là "đồ thật" thì việc hỗ trợ đó cũng là rất bình thường nếu không muốn nói là cần hoan nghênh. Cụm từ "phục vụ tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta" có thể hiểu rằng: 1) việc hỗ trợ Việt kiều in ấn / phát hành / truyền bá văn hóa trong nước ra nước ngoài nói riêng, các ngành nghề khác nói chung là chủ trương, là chính sách của Đảng và nhà nước, để từ đó kêu gọi Việt kiều yên tâm về nước đầu tư; 2) Vì đây là những ấn phẩm "thuần túy tôn giáo" nên có tác dụng tuyên truyền đường lối, chính sách về "tự do tôn giáo" của Đảng và nhà nước. Và thực tế nội dung của các ấn phẩm này (tạp chí Giao điểm số 65) chẳng có gì liên quan đến việc tuyên truyền cho CNCS cả.
- Tạp chí Giao điểm được thành lập từ 1990, trước cả khi Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Nếu quả thực đó là "tay sai của CSVN" thì chúng ta rất nên tự hào khi đã có một tạp chí thuần tôn giáo hình thành và phát triển "sâu gốc bền rễ" trong cộng đồng người Việt tại Mỹ. Đó là cái tát thích đáng vào những cái mồm leo lẻo rằng Việt Nam ngăn cấm tự do tôn giáo.

Con chiên Nguyễn Hữu Vinh với cái tư duy cừu của mình không thể hiểu được điều đó nên gân cổ lên rằng: "Người ta mệnh danh Phật giáo để 'điên cuồng xuyên tạc' và 'chống phá Công giáo'. Việc 'đánh phá Công giáo' ở những trang này có thể coi là sự bất chấp sự thật, bất chấp lý lẽ, bất chấp luân thường đạo lý, miễn đúng như định hướng mà Đảng CSVN đã đưa ra. Người ta có vẻ không cần quan tâm đến những gì Đức Phật đã dạy, những nguồn gốc sự đau khổ của con người Việt Nam, miễn là làm 'vừa lòng ông chủ' và cơn 'hận thù mù quáng' của họ".

Thứ nhất, với những gì tôi đọc trên trang Sách hiếm thì tất cả các bài viết mà JB cho là "chống phá Công giáo" đều có ký tên rõ ràng của người viết chứ không hề nhân danh Đức Phật hay Phật giáo hay thậm chí là Phật tử.

Thứ hai, theo tôi đọc thì những tác giả như GS Trần Chung Ngọc, GS Nguyễn Mạnh Quang,... trích dẫn ngay từ kinh thánh ra và có chú thích rõ ràng chứ chẳng hề "điên cuồng xuyên tạc" như con chiên JB vu cáo. Tôi cũng thấy có nhiều con chiên và chủ chăn khác vào đấu lý với các tác giả này và đều được "dắt tay chỉ dẫn" từng chỗ, từng chỗ trong thánh kinh.

Thứ ba, nếu muốn "chống phá Công giáo" thì Nhà nước Việt Nam đâu cần phải "mệnh danh Phật giáo" làm gì vì những bê bối của Ki-tô La Mã được liệt kê đầy rẫy trên các phương tiện truyền thông nước ngoài đó thôi: nào là 7 núi tội ác, nào là ấu dâm, nào là tham ô - bài bạc,... Trong khi đó, truyền thông của cái chế độ đang bị tố là "chống phá công giáo" lại chẳng hề mặn mà gì với việc phơi bày bản chất của các vị buôn thần  bán thánh này, thậm chí còn ca ngợi và cổ vũ cho những người Công giáo chân chính sống tốt đời đẹp đạo. Thế mới lạ chứ!

Thứ tư, Nhà nước Việt Nam chẳng có lý do gì để chống Công giáo nếu tôn giáo này hoặc những người lợi dụng nó không làm những điều gây tổn thương đến lợi ích quốc gia vì có một thực tế là khi kinh tế - khoa học kỹ thuật càng phát triển thì người dân càng có xu hướng tự giải thoát mình khỏi thân phận con cừu cho người khác chăn. Theo số liệu từ World Christian Database thì số người theo Kitô giáo tại châu Âu (cái nôi của đạo này) đã giảm từ 38,5% dân số năm 1970 xuống còn 23,7% dân số năm  2012.

Thứ năm, con chiên JB cũng như những kẻ lợi dụng tôn giáo làm chính trị luôn lải nhải cái luận điệu ngu dốt "cộng sản vô thần, đàn áp tôn giáo" nhưng khi có vấn đề với các tôn giáo khác hoặc với chính những người trong tôn giáo của mình (Ủy ban đoàn kết tôn giáo) thì lại cáo buộc họ là "tay sai cộng sản"! Tại sao cộng sản lại chỉ "chống công giáo" mà không chống các tôn giáo khác?

Thứ sáu, JB cho rằng Sách hiếm, Giao điểm (đứng sau là Đảng CSVN) có "hận thù mù quáng" với Ki-tô giáo nhưng chẳng hề nói ra được đó là hận thù vì cái gì, như thế nào. Đây là một sự chụp mũ vô căn cứ vì khi đọc các trang web này, người đọc sẽ thấy các bài viết đều có chú thích rõ ràng nguồn gốc của thông tin (hầu hết là trích dẫn từ kinh thánh!) và mục đích của người viết dường như là để "giải độc tín ngưỡng" cho những người bị lợi dụng hoặc thiếu hiểu biết. Cũng may là con chiên JB đang sống dưới "ách cai trị của độc tài cộng sản" chứ sống ở "thế giới tự do Hoa Kỳ" thì chắc cũng sẽ chung cảnh ngộ với con chiên Thomas Nguyễn (Nguyễn Văn Thạch), người bị tòa án Mỹ tuyên phạt hơn 150 ngàn đô la Mỹ vì tội vu không Giao điểm là cộng sản.

Nói tóm lại, đọc qua bài viết của con chiên JB Vinh "văng miểng", tôi chỉ thấy ở đó có sự cùng quẫn về lý lẽ, hiểu biết, tâm thức của một kẻ mắt không nhìn quá ngọn roi, tai không nghe quá được những mệnh lệnh chăn dắt của chủ chăn nhưng lại ôm mộng tưởng chống lại cả thế giới bên ngoài cái chuồng của mình.

2013/04/03

Vấn đề người giáo dân tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992

(TG&DT) - Chúng con tha thiết mong Giáo hội chúng ta cũng như toàn các giáo phận, giáo xứ, giáo họ… được sinh hoạt bình thường như các tôn giáo bạn hiện tại, để giáo dân chúng con được an cư lạc nghiệp, được bình an. Thật ra mọi người có quyền suy nghĩ và nói lên suy nghĩ tiêu cực của mình. Điều quan trọng là việc góp ý có chính xác và hợp lý chăng!
Mọi tầng lớp nhân dân  trong xã hội hiện nay tại Việt Nam, được quyền tham gia góp ý để xây dựng  một bản Hiến Pháp hoàn chỉnh hơn, trong đó, giới trí thức và tôn giáo đã năng động và có nhiều ý kiến sáng tạo sâu sắc nhất. Đó là chủ trương của đúng đắn của cơ quan lập pháp.

Tuy nhiên, không tránh khỏi một vài thành phần lợi dụng sự phóng khoáng nầy để mưu đồ xuyên tạc đường lối, chính sách Nhà nước, thậm chí xem việc góp ý là đòn bẩy để Nhà nước nắm được ý đồ đen tối của các đối tượng. (Không cần lợi dụng sự góp ý nầy , Nhà nước cũng nắm rõ từng ý đồ đen tối đó).

Thật ra mọi người có quyền suy nghĩ và nói lên suy nghĩ tiêu cực của mình. Điều quan trọng là việc góp ý có chính xác và hợp lý chăng!


Trong số góp ý tập thể cũng như cá nhân, hầu như có nhiều điểm chung mà văn bản của 72 nhà trí thức cũng như của HĐGMViệt nam được hệ thống hóa. Mang tính thẳng thắng, xây dựng, cũng không thiếu đả kích, thậm chí thiếu thiện chí xây dựng, đả phá theo luận điệu cũ rích của những người luôn toan  tính  chống phá chế độ, đất nước này (đương nhiên, vì tự do ngôn luận mà).

Những góp ý như vậy sẽ được Hội đồng góp ý sử đổi Hiến pháp lắng nghe, tiếp thu có chọn lọc để đưa ra trình các ý kiến chung nhất đại diện cho mọi giai tầng xã hội trên cơ sở tôn trọng luật pháp và các nguyện vọng tâm huyết xây dựng đất nước của mọi giai tầng xã hội. Điều đáng nói ở đây, những góp ý chỉ là góp ý chứ chưa phải là văn bản pháp quy được chính thức  hợp pháp, (đã là văn bản góp ý thì không thể được xem là văn bản pháp quy) thế mà văn bản góp ý của Hội Đồng Giám Mục đã được các Linh mục ở giáo phận Vinh cho phổ biến học tập trong toàn các giáo phận, giáo xứ. Tổ chức cho giáo dân ký tên sau các buổi thánh lễchụp ảnh quay phim tán phát lên các trang mạng. Cha trẻ Thư ký TGM Nguyễn Văn Hương ra văn bản yêu cầu các giáo xứ phải lên tiếng, ghi danh ủng hộ vào bản góp ý Hiến pháp vào các trang mạng xã hội. Thậm chí nhiều cha thuyết giảng kích động kêu gọi chúng con chống lại chính quyền, bất hợp tác với các, phản kháng các cuộc vận động tham gia các phong trào thi đua yêu nước với tư cách công dân tốt.

Người công giáo lo lắng và nghiêng ngả lòng tin cả với chính quyền và giáo hội. Chúng con nghĩ việc phổ biến để tín đồ nắm rõ ý kiến của HĐGM là khác mà việc cho học tập nhuần nhuyễn như học tập một “nghị quyết”, tổ chức các cuộc lấy chữ  ký ủng hộ, bắt phải lên tiếng lại là việc khác; nếu xem đó là văn bản pháp quy có giá trị tuyệt đối buộc Nhà nước phải áp dụng, thì đây là một ý đồ lợi dụng tôn trong việc góp ý của nhân dân thành một tiếng nói của một lực lượng mang tính thống nhất; như vậy văn bản: “nhận định và góp ý” không còn ý nghĩa của nó mà vượt ra khỏi phạm vi cho phép để biến chúng thành tiếng nói, thành chủ trương  thống nhất không thay đổi của một tổ chức tôn giáo. Việc cha Thư ký Nguyễn Văn Hương ra lời kêu gọi ép buộc chúng con như thế… Liệu việc làm như thế có thành công hay càng tạo thêm hố sâu ngờ vực cho nhau? Mà chúng con nghi ngờ mục đích của những việc làm này là gì? Nếu vì sự thánh hóa của Thiên chúa thì có lẽ nên chú trọng vào những việc làm thiết thực hơn trên quê hương xứ Nghệ đang “giàu mưa nắng, đói nghèo này” này hơn là lo chuyện bao đồng. Với tư cách một công dân xứ Nghệ, con thiết nghĩ các cha nên hành xử như một công dân với thành tâm xây dựng đất nước trong lúc khó khăn giặc ngoài quấy rối, kinh tế sa sút hiện nay, để đất nước ngày một sáng hơn thì nhà nước mới từng bước ổn định và cởi mở.

Nếu chúng ta cứ tạo ngờ vực nhau, không tin nhau thì tự chúng ta làm khó nhau thôi. Chúng con là những tín đồ ôn hòa, chăm chỉ làm ăn không muốn các cha đẩy chúng con vào thế luôn bất ổn, có khi là vi phạm luật pháp, không muốn đẩy giáo hội vào thế đối lập dai dẳng khi mà Giáo hội Mẹ của chúng ta luôn thích nghi với mọi hoàn cảnh, khuyên chúng ta luôn chấp hành luật pháp thế tục. Những chống đối chủ Nghĩa Cộng Sản trước kia từ Trung Quốc, Liên Sô và bây giờ, vẫn là do vài cá nhân các Giám mục, các Linh mục chứ chưa bao giờ có tiếng nói phát động chính thức của Giáo hội Mẹ chúng ta. Phúc âm trong lòng dân tộc và Người công gíao tốt phải là người công dân tốt luôn là nguồn sáng để chúng con hướng tới.

Chúng con tha thiết mong Giáo hội chúng ta cũng như toàn các giáo phận, giáo xứ, giáo họ… được sinh hoạt bình thường như các tôn giáo bạn hiện tại, để giáo dân chúng con được an cư lạc nghiệp, được bình an.


Giáo dân xứ Ngh
2/4/2013

2013/04/02

Góp Ý Của Giáo Dân Về Bản Nhận Định Và Góp Ý Dự Thảo Sửa Đổi Hiến Pháp 1992 Của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

Góp Ý Của Giáo Dân về Bản
“Nhận Định Và Góp Ý Dự Thảo Sửa Đổi Hiến Pháp 1992 (Sửa Đổi Năm 2013) Của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam – Các Giám Mục Công Giáo Việt Nam”
***

Tôi tên Nguyễn Trọng Nghĩa,  là giáo dân giáo xứ Cao Lãnh – giáo  phận Mỹ Tho, ngụ tại số 37, đường Điện Biên Phủ, xã Mỹ Trà, Tp Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.



Vừa qua trên các  diễn đàn mạng điện tử đã xuất hiện một thư góp ý sửa đổi dự thảo hiến pháp 1992 (sửa đổi 2013) của các Giám mục Việt Nam. Thiết nghĩ việc góp ý bản dự thảo sửa đổi hiến pháp là quyền và việc cần thiết của mỗi công dân Việt Nam, là việc làm thể hiện chính kiến chính trị của mỗi cá nhân trong xã hội.
Đáng lẽ việc góp ý không có gì để một giáo dân – công dân phải quan tâm và quá quan trọng để phải gửi thư góp ý, nhưng vì đây là bản góp ý có liên quan đến chính kiến – chính trị của các vị Giám mục – là những chủ chăn của chúng tôi, là những vị chăm sóc phần hồn cho chúng tôi. Sau khi xem bản nhận định và góp ý dự thảo sửa đổi hiến pháp của các Giám mục Công giáo Việt Nam – Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM) tôi có mấy điều góp ý như sau (dàn bài dưới đây, số I, II, III,... là theo sát dàn bài của Bản Nhận Định... của Các Giám Mục Việt Nam): (xem HDGM.php)

=>Các Giám mục đã ghi: (xem HDGM.php#I“….Bản dự thảo đã liệt kê khá đầy đủ những quyền căn bản của con người. Vấn đề là làm thế nào để các quyền ấy được hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo pháp luật trong thực tế”?
Góp ý của tôi: Nhận định của các vị chưa đầy đủ và thuyết phục ở các điểm “liệt kê khá đầy đủ” những quyền căn bản của con người vì theo tôi được biết từ bản tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền thì không phải đã liệt kê “khá đầy đủ” mà thực tế là đã “đầy đủ” các quyền căn bản trong tuyên ngôn nhân quyền; Việc “hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo pháp luật trong thực tế?” là trăn trở của các GM và cũng là của nhiều người nhưng trong “nhận định” tôi thấy rằng ý tứ của các GM cho rằng chính quyền đã không “hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo pháp luật trong thực tế?”. Tuy nhiên, điều cần thiết trong nhận định là phải chứng minh nhận định của mình đúng, điều đó cần thể hiện rằng chủ trương hay chính sách nào đã không “hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo pháp luật trong thực tế?” vì nếu có nơi nào đó có sai trái thì đó theo tôi chỉ là thực trạng của một địa phương nào đó chứ không phải là chủ trương của chính sách hay chủ trương. Vậy thì nhận định của các GM trong 2 ý này là chưa toàn diện và khách quan!!!???

=> Các GM đã ghi: “Dự thảo khẳng định quyền tự do ngôn luận (điều 26), quyền sáng tạo văn học nghệ thuật (điều 43), quyền tự do  tín ngưỡng (điều 25). Tuy nhiên, ngay từ đầu, Dự thảo lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng  Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” (điều 4). Như thế, phải hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tự do ngôn luận và sáng tạo văn học, nghệ thuật, bởi lẽ tư tưởng đã bị đóng khung trong một chủ thuyết rồi? Tương tự như thế, phải hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bởi lẽ chủ nghĩa Mác-Lênin tự thân là chủ nghĩa vô thần? Phải chăng những quyền này chỉ là những ân huệ được ban cho tùy lúc tùy nơi, chứ không phải là quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, và bất khả nhượng? Hiến pháp cần  phải xóa bỏ những mâu thuẫn và bất hợp lý này, thì mới có sức thuyết phục người dân và thu phục lòng dân”.
Góp ý của tôi: Có lẽ các GM chưa có điều kiện tìm hiểu cặn kẽ về bản dự thảo hiến  pháp cũng như những lý luận nền tảng đã được công khai khi xây dựng bản dự thảo này, vì tôi thấy rằng các GM không phân tích ý nghĩa của từng điều khoản trong hiến pháp nên đã nhận định chưa đúng với những gì mà tôi đã biết qua các cơ quan truyền thông  đại chúng.
Vấn đề “tư tưởng bị đóng khung trong một chủ thuyết” là chưa đúng vì theo tôi được biết chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ tư tưởng quản lý xã hội và đảng cầm quyền chỉ lấy tư tưởng quản lý xã hội chứ không “đóng khung” tư tưởng của người dân.
Quyền tự do ngôn luận hẳn không phải bao gồm quyền “phỉ báng” hay xúc phạm đến người khác hay xuyên tạc nói không đúng một cách cố ý… Quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật cũng không bao gồm sáng tạo nên những tư tưởng cực đoan hay mê tín, đó cũng không phải là quyền sáng tạo hay dựng đứng sự việc để bài xích một hệ tư tưởng khác…. Cũng thế, quyền tự do tín ngưỡng cũng bao gồm quyền tự do không tín ngưỡng và cũng không được nâng tôn giáo mình lên và hạ thấp tôn giáo khác….
Đảng cầm quyền quản lý một xã hội có nhiều người dân thì cần có những chuẩn mực về ngôn phong để giáo dục đạo đức cho con người trong xã hội chứ không phải để bắt người dân “nói theo” đảng. Điều này cũng như giáo dân luôn hiệp thông cùng giáo hội, điều này chúng ta đã trở nên khác biệt với người Tin Lành vì chúng ta chỉ được hiểu kinh thánh từ giáo hội chứ không phải tự do tùy ý giải nghĩa kinh thánh.
Như vậy, các quyền được đề cập (a) theo tôi tự thân nó được “tự do” theo cụ thể của nó là pháp luật và pháp lệnh tương ứng và nếu có vấn đề thì chỉ cần điều chỉnh ở luật và pháp lệnh chứ không cần thiết điều chỉnh ở hiến pháp; (b) Tôi không biết chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa vô thần, nên nếu có thể xin hãy chứng minh nhận định này của các GM, vì khi nhận định về một cá nhân hay tổ chức mà không toàn diện, cụ thể hay  khách quan thì ý kiến của các GM trở nên chủ quan, thiên kiến và thiếu hiểu biết. Tôi nhận biết cụm từ “cộng sản vô thần” xuất phát từ sự xuyên tạc của những người chống cộng sản từ ý thức hệ như là sự đối trọng giữa “tư bản” và “cộng sản” của thế kỷ trước.
Hiện tại tôi nhận biết rất nhiều người cộng sản có tín ngưỡng của rất nhiều tôn giáo và là của hầu hết các tôn giáo phổ biến, bản thân những người không có tín ngưỡng phổ biến cũng vẫn thờ cúng tổ tiên… vậy thì nhận định người cộng sản vô thần theo tôi là chưa đúng và quá thiên kiến hay chỉ là nhận định chống cộng sản không suy xét!
Những quyền được hiến pháp và pháp luật quy định thì chắc chắn không phải là ân huệ được ban phát cho, và khi đã được ghi vào hiến pháp và pháp luật thì chắc chắn đó là quyền phổ quát, những quyền được ghi vào luật là quyền bất khả xâm phạm và dĩ nhiên là bất khả nhượng! Tôi thấy rất lạ khi các GM không biết điều này và không phân tích hay hiểu một điều hết sức đơn giản này. Tất cả những quyền mà các GM đề cập đều có chế tài nếu cá nhân hoặc tổ chức nào vi phạm, tôi biết  điều này vì tôi đã xem rất kỹ những luật này và cả hiến pháp, các vị GM có tìm hiểu hay không mà sao tôi thấy như là các vị không biết đến??? Do vậy, tôi nhận định rằng trong các trăn trở bên trên mà các vị GM đã đề cập chắc rằng tôi không nhận thấy có mâu thuẫn và bất hợp lý! Trái lại thì tôi thấy các vị GM có nhiều điều chưa sáng trong nhận định của mình!

=> Các GM ghi: “Trong thực tế, sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy sáng tạo của người dân Việt Nam. Đây là một trong những lý do lớn, dẫn đến tình trạng trì trệ và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt: giáo dục, khoa học và công nghệ văn hóa và nghệ thuật”.
Góp ý của tôi: Tôi nhận định rằng hệ tư tưởng hiện tại của đảng cầm quyền là một hệ tư tưởng quản lý xã hội theo một chuẩn mực, và đến nay đã ký kết tất cả các hiệp ước về quyền con người mà liên hiệp quốc cũng như hầu hết các quốc gia tiến bộ về nhân quyền đã ký kết. Hiện tại, Việt Nam là quốc gia tiến bộ về vấn đề nhân quyền – quyền con người nên nếu nhận định “trói buộc” nên bị “kìm hãm” là không thực và quá thiên kiến hay cố ý gán ghép. Vậy nếu được thì xin các GM cho một chứng minh về “sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy sáng tạo của người dân Việt Nam”
Tôi công nhận rằng nếu có sự ràng buộc về tư tưởng một cách cực đoan thì chắc chắn nhiều lĩnh vực sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng! Hiện tại, ngành giáo dục nếu có chậm phát triển thì cũng không phải do “hệ tư tưởng” mà là do “trình độ quản lý”. Thực tế, nhiều trường tư thục hay nước ngoài không bị hạn chế bởi một hệ tư tưởng mà vẫn không thể hiện được sự ưu việt hơn cách quản lý giáo dục công lập… Nếu các vị GM có quan tâm đến các lĩnh vực giáo dục, khoa học và công nghệ văn hóa và nghệ thuật thì sẽ thấy rằng các lĩnh vực này hiện đang rất phát triển và phát triển vượt bậc.
Một lịch sử cụ thể quan trọng mà các GM đã bỏ qua trong  quá trình nhận định là: Đất nước chúng ta vừa trải qua chiến tranh chưa lâu và sau đó là cấm vận kinh tế, văn hóa, chính trị suốt 19 năm! Đất nước ta chỉ đang chập chững hội nhập và phát triển nhưng cũng đã đạt rất nhiều thành quả mà thế giới – cộng đồng quốc tế công nhận. Vậy sao các vị GM lại không biết vấn đề này mà không công nhận???

=> Các GM ghi: “Nếu cần một nền tảng, chúng tôi thiết nghĩ đó phải là truyền thống văn hóa phong phú của dân tộc Việt Nam, chứ không phải một hệ ý thức nào khác. Truyền thống văn hóa ấy đã trải qua nhiều thế kỷ, giúp dân tộc Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước, kiến tạo lối sống đầy tính nhân văn. Nền văn hóa đó chính là nền tảng cho đời sống xã hội  của dân tộc Việt Nam, những tư tưởng mới có thể và cần  được đón nhận để bổ túc cho phong phú nhưng không thể thay thế…”
Góp ý của tôi: Mọi tính chất tốt của dân tộc đều có thể trở thành truyền thống nếu chúng ta công nhận và xây dựng nó thành một truyền thống! Trong một chu kỳ thời gian mà một tổ hợp con người có thành tích trên một lĩnh vực nhất định thì lĩnh vực ấy chắc chắn là truyền thống của dân tộc đó! Chúng ta vẫn gạn lọc nhiều truyền thống văn hóa để tiếp thu và phát triển một cách tích cực nhất, đó là gạn lọc truyền thống vua chúa phong kiến, đó là những tập tục mê tín dị đoan…Trên cơ sở gạn lọc chúng ta đã tổng hợp cho mình một chuẩn mực nhất định về đạo đức, văn hóa, chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự…. Không phải cái gì cũ cũng quý! Chúng ta có đồ cổ nhưng thức ăn củ thì không thể ăn. Do vậy, chúng ta gạn lọc cái cũ và tiếp thu cái mới một cách chọn lọc để kết tinh thành những “truyền thống” chuẩn mực nhất và tinh túy nhất. Nếu các GM đã đòi hỏi tự do thì chính tư tưởng cộng sản cũng là một tự do! Nếu các Ngài thấy rằng nó chưa tốt thì hãy góp ý để gạn lọc những yếu tố chưa tốt của nó để nó hoàn thiện và phát triển. Nếu các Ngài chống đối cộng sản thì hẳn các Ngài đã thấy những điểm sai của cộng sản, vậy xin các GM chỉ ra để tôi am tường!

1. Tôi đồng ý với đề nghị số 1 (...)
2. Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam là gì? Xin giải thích thêm!
3. Tôi đồng ý một phần, phần việc “…từ khi thành thai đến chết…” (...) có liên quan đến các yếu tố buộc phải “phá thai” nên tôi không đồng ý với quan điểm này.
4. Tôi đồng ý với điều số 4 (...)
5. Tôi đồng ý một phần, phần còn lại tôi có những quan điểm khác như sau: Ở đề nghị số 4 có ghi rằng “…mọi người có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình.” Nhưng tại đề nghị số 5 lại cho rằng “Nhà nước không tuyên truyền tiêu cực về tôn giáo…” là một điều chưa đúng vì chúng ta phải suy nghĩ thêm một chiều rằng: Nếu tôn giáo có tiêu cực thì nhà nước cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm về các vấn đề tiêu cực của tôn giáo. Khi chúng ta có tự do bày tỏ thì chính chúng ta cũng đang tuyên truyền và vì vậy cũng không thể gán ghép việc bày tỏ của nhà nước là tuyên truyền được. Hoặc chúng ta phải chấp nhận hoặc đừng đề nghị  là hay nhất.

Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định (xem HDGM.php#II) của các vị GM về vai trò của nhân dân trong việc quản lý quyền  bính chính trị và dĩ nhiên nhận định này là “quá”  đúng đắn hoặc đã được ghi rõ trong hiến pháp về quyền này quản lý, giám sát chính quyền được thể hiện khá chi tiết trong từng lĩnh vực thông qua các luật, pháp lệnh. Tôi thường thấy quyền bính chính trị hay quyền giám sát – quản lý của nhân dân luôn xuất hiện ở phần sau của các văn bản quy phạm pháp luật. Có chăng sự giám sát và quản lý của người dân chưa được thực hiện là do trình độ nhận biết của người dân về quyền của mình.
Tôi thấy có mấy nguyên nhân thường xuất hiện trong việc người dân không thể thực thi quyền quản lý, giám sát quyền bính chính trị là: (a) Trình độ học vấn thấp nên không thể tiếp cận với những “quyền” được hiến định. (b) Người dân thờ ơ với “quyền” hiến định, chỉ khi có sự việc xảy ra thì mới “đặt vấn đề về quyền làm chủ” của mình. (c) Do cuộc sống mưu sinh còn khó khăn và khả năng thể hiện trình độ quản lý – giám sát quyền bính chính trị nên người dân gần như “phó thác” quyền hành mà không kiểm tra. (d) Một số cán bộ (thật sự có) có tư tưởng “dân ngu dễ trị” nên tạo nhiều ngăn trở để người dân không nhận biết quyền bính chính trị của mình….

1. Tôi đồng ý một phần ở đề nghị số 1, nhưng cũng chưa đồng ý với nhận định rằng việc đổ hết trách nhiệm “về quyền làm chủ của nhân dân chỉ có trên giấy tờ và lý thuyết” vì (a) Người dân phải ý thức được quyền bính của mình để thực thi chứ không phải chờ chính quyền đến rồi cho rằng quyền của mình là  do “ban phát tùy lúc tùy nơi”. (b) Trách nhiệm của người dân là phải luôn nhắc nhở chính quyền và cùng chính quyền quản lý xã hội chứ không phải giao phó không kiểm tra rồi “trách” chính quyền lạm quyền khi có sự việc xảy ra. (c) Cần đề nghị chính quyền phải luôn ý thức mình là công bộc – thừa hành quyền của người dân chứ không phải là “cha mẹ” dân.
2. Tôi không đồng ý với  quan điểm số 2 (...) vì mấy lý do sau: 
(a) Đảng Cộng sản khẳng định mình là liên minh của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức! Tôi cho rằng quyền bính chính trị là của nhân dân nhưng lãnh đạo nhân dân chính là một bộ phận nhân dân trong đó ưu việt hơn mà cụ thể là liên minh giai cấp có trình độ quản lý xã hội. Hiện tại, Đảng Cộng sản là một liên minh giai cấp có tư tưởng quản lý xã hội có hệ thống, và hệ thống luôn luôn có tổng kết trong quá trình điều hành nên việc trong thời gian nhất định khi xã hội còn nhiều khó khăn như hiện nay và cần nhiều thời gian để ổn định chính trị cho phát triển thì việc “tạm” nương tựa vào một chủ thuyết “ổn định” sẽ giúp  đất nước “ổn định” hơn. 
(b) Dân trí ta còn thấp nên khó lòng đòi hỏi thực hiện tối đa các quyền dân chủ mà cần phải có sự điều chỉnh phù hợp! Tôi có thể liệt kê nhiều vấn đề lớn về vấn đề “dân trí thấp” mà “trình độ học vấn cao” được thể hiện hang ngày của người dân mà chính các vị GM phải thừa nhận rằng chính những điều đó chính quyền cần và nên hạn chế quyền của người dân. Tôi ví dụ: Trong các vụ tai nạn giao thông thì người đứng xem – hiếu kỳ luôn là 99%, hay các vị GM có từng nghe tuyên ngôn thuộc linh của Tin Lành vào cuối năm 2009 chưa? (SH: xem Tuyên Ngôn Thuộc Linh) Nếu các Ngài nghe xong tuyên ngôn thuộc linh thì các Ngài sẽ nói dân trí của ta có cao hay không?....
Tôi đồng ý vấn đề mỗi cá nhân trong chính quyền điều phải chịu trách nhiệm trước nhiệm vụ của mình, nhưng lại không đồng ý cho rằng “cuối cùng không ai chịu trách nhiệm cả” vì: Dù là thể chế chính trị nào, là đa đảng hay độc đảng thì cũng phải chịu trách nhiệm. Tôi khẳng định rằng dù có là thể chế chính trị mà ở đó đứng đầu là Tổng thống thì chắc rằng vị tổng thống ấy cũng là đại diện cho đảng phái của mình, ông ta chịu trách nhiệm và dĩ nhiên tập thể đảng phái cũng phải chịu trách nhiệm chung.
Tôi thấy vấn đề này không có gì gút mắc ngoại trừ rằng có thể đề nghị việc chịu trách nhiệm cụ thể trước dân của cá nhân và tập thể chính quyền.
(c) Tôi khẳng định rằng càng nhiều đảng phái chính trị hay vô chính trị nắm chính quyền thì chắc chắc nền chính trị với  “dân trí thấp” của chúng ta sẽ bất ổn và hậu quả thế nào thì các Ngài có thể đo đến trong từng lĩnh vực. Và rằng các Ngài có nghĩ với trình độ “dân trí thấp” của chúng ta thì các Ngài có chấp nhận tranh luận những vấn đề còn có ý kiến khác nhau như vấn đề phá thai hay hôn nhân không dùng bí tích hôn phối và không “phép chuẩn” của người công giáo với người ngoài hay không? Tôi ví dụ rằng gia đình tôi sẽ không có bữa cơm ngon nếu trong bữa mà các thành viên điều tranh luận vấn đề theo ý kiến của đảng phái, 5 người theo 5 đảng thì bữa cơm thành chiến trường. Các Ngài có từng thấy các dân biểu khác chính đảng đánh nhautại quốc hội chưa, hay quốc hội phải lén lút thông qua điều luật nào đó mà không mời đại biểu chính đảng phản đối. Chắc hẳn các GM chưa trăn trở điều này nhưng tôi chắc chắc rằng tình hình chính trị ở Việt Nam đến hiện nay là ổn định và tôi muốn điều đó được duy trì!
3. Quyền sở hữu hay “sử dụng” đất đang được tranh luận nhưng thiết nghĩ các vị GM không nên tham gia ý kiến trong phạm vi quyền này vì giáo luật của chúng ta cũng có quy định về tài sản của giáo hội. Trên phương diện quốc tế thì Việt Nam và Vaticăn là 2 quốc gia độc lập về chủ quyền nhưng theo giáo luật thì quyền “tài phán”về tài sản của giáo hội lại vượt ngoài Vaticăn. Điều này có thể gây bất mãn đối với nhiều thành phần trong xã hội nếu một tài sản đất đai của quốc gia nay lại thuộc quyền sở hữu của một quốc gia khác vì chính hiến pháp của chúng ta. Người dân ngoài công giáo thì có thể đòi hỏi  quyền này và ngay cả giáo dân cũng có thể. Nhưng hàng giáo phẩm chúng ta lại có 2 quốc tịch và lại nếu hiến pháp cho phép sở hữu đất đai, thì liệu khi các Ngài không muốn giữ lại quốc tịch Việt Nam thì tình huống sẽ trở nên căng thẳng. Mặt khác, nhiều lớp người của nhiều thế hệ cha ông đã hy sinh để có độc lập và chủ quyền lãnh thổ - trong đó có đất đai thì việc quy định toàn dân có quyền sở hữu đất đai là hợp lý và tình. Nếu các Ngài có trăn trở về quyền quản lý đất đai của nhà nước thì tại sao không góp ý cho luật đất đai mà lại đòi quyền sở hữu từ hiến pháp cho thêm rắc rối và dị nghị.
4. Tôi đồng ý với đề nghị số 4.(...)

Vấn đề đề nghị bỏ điều 4 (xem HDGM.php#III) để có được tam quyền phân lập theo tôi là không cần thiết vì:
Điều 74 khẳng định “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” là đúng và điều 4 “lại khẳng định đảng cầm quyền là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” và các Ngài lại bỏ đoạn sau đó là “đảng hoạt động theo quy định của hiến pháp và pháp luật”. Nếu các Ngài cho rằng Quốc hội “là công cụ”  của đảng cầm quyền thì tại sao Quốc hội lại bắt đảng phải thực hiện theo hiến pháp và pháp luật của Quốc hội. Vậy thì liệu các Ngài hỏi “việc người dân đi bầu các đại biểu quốc hội có ý nghĩa gì?” là câu hỏi chưa sâu sát vấn đề và hầu như không hiểu cơ chế“tam quyền  phân lập” có phân công trách nhiệm là gì?
Tôi đề nghị các Ngài hãy xem lại cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước Việt Nam trước khi các Ngài GM nói “một sự lựa chọn thật sự tự do hay chỉ là thứ dân chủ hình thức?" thì chúng ta hãy tự đặt vấn  đề cho chính mình trong xử lý hôn nhân  khác tôn giáo bằng giáo luật. Luật hội thánh buộc chúng ta khi kết hôn phải thực hiện việc nhận lãnh “bí tích hôn phối”! nhưng nếu một bên không cùng tôn giáo thì chúng ta cũng cho họ “tự do” không phải theo đạo – học giáo lý, không phải rửa tội và cùng nhận bí tích hôn phối…. nhưng chúng ta lại có “phép chuẩn” buộc phải làm nếu không thì không được “thông phần”. Vậy “phép chuẩn” đã cướp đi “tự do” rồi.
Tôi cho rằng các Ngài GM cố tình không hiểu và gán ghép tội “đảng cầm quyền đứng trên luật pháp”! Bản dự thảo khẳng định “đảng cộng sản hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật” thì Tổng Bí thư chính là đảng viên cộng sản và ông ta chỉ đại diện đảng vì họ là “tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách” mà. Vậy thì nếu quy định về Tổng bí thư thì phải quy định thế nào khi ông ấy là đảng viên và chỉ đại diện đảng cầm quyền?
Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội về hệ thống tư tưởng quản lý xã hội, chứ nào là như các Ngài hiểu, là lãnh đạo bẳng với việc đứng trên luật pháp. Sao các Ngài GM suy nghĩ kỳ lạ và thiếu chiều sâu quá vậy? Chính tòa án đã nhiều lần và ở nhiều nơi xét xử đảng viên cộng sản, nhiều tổ chức đảng bị khiển trách, khai trừ, giải tán theo đề nghị của tòa án. Sao các Ngài không tìm hiểu kỹ càng vấn đề trước khi góp ý! Ngay chính điều lệ đảng cũng có phần giải tán tổ chức đảng nếu tổ chức vi phạm hiến pháp và pháp luật, vi phạm kỷ luật đảng. Chúng ta khẳng định rằng một người phạm tội thì không thể quy hết trách nhiệm cho tổ chức mà người đó là thành viên nếu tổ chức đó không chủ trương làm thành viên của mình phạm tội! Tôi không đánh giá hàng giáo sĩ xấu chỉ vì thấy rằng có nhiều giáo sĩ  lạm dụng tình dục, và cũng vì vậy tôi không đánh giá đảng cầm quyền không đủ tư cách lãnh đạo nhà nước và xã hội chỉ vì ở một địa phương có đảng viên xấu!

1. Vì tôi không nhận thấy đặc quyền nào hay Quốc hội là công cụ của đảng cầm quyền (như đã lý lẽ bên trên) nên tôi không đồng ý với đề nghị số 1 của các GM. (...)
2. Trên thực tế tôi nhận thấy “tam quyền phân lập” kiểu Việt Nam chúng ta trong hiện tại là phù hợp với tâm cảnh người Việt Nam (như đã lý lẽ bên trên) nên tôi thấy không cần thiết rập khuôn tam quyền phân lập phương tây. Mỗi cách có ưu khuyết điểm chứ không có cái nào tối ưu thì tôi đề nghị chọn phương pháp “ổn định” về chính trị như hiện nay.
3. Tôi đồng ý với đề nghị số 3. (...)


Kính thưa các vị Giám Mục,
Thứ nhất, Con cho rằng các vị Giám mục cũng là những công dân nên không đứng ngoài chính trị, nhưng con nhận thấy rằng những đóng góp và nhận định có hơi hướng của những thành phần chống cộng sản rất thiên kiến và cực đoan hay ngay cả xuyên tạc sự thật (hoặc các vị không biết). Con nghĩ rằng với trình độ của các vị Giám mục thì nhận thức sẽ cao hơn giáo dân chúng con, và con cũng biết rằng những tàn dư mâu thuẫn trong quá khứ và cả hệ tư tưởng quản lý xã hội khác với người cộng sản hẳn đã làm các Ngài không sáng suốt trong nhận định về người cộng sản.

Thứ hai, con nhận biết rằng trong quá trình quản lý đất đai của chính quyền đã có những mâu thuẫn với tài sản của giáo hội nên các Ngài đã nặng lòng chống cộng sản. Điều đó con đã lý lẽ và con thấy các Ngài chưa đúng trong hành xử với những tranh chấp với “công bằng và sự thật”. Con thấy rằng các Ngài đã lợi dụng và bị lợi dụng bởi những người chống cộng để đạt được kết quả về tranh chấp với nhà nước.

Thứ ba, con tin rằng không có 100% các Giám mục có đồng quan điểm và ý  kiến của bản góp ý hiến pháp nhưng các vị ấy cũng vẫn phải gánh vác “các giám mục Công giáo Việt Nam” đứng tên trên bản góp ý. Các ngài Giám mục nên biết rằng chúng con cũng có suy tư và cũng có quan điểm về mọi vấn đề rất khác nhau. Ngay khi chúng con nghe rằng có các vụ “giáo sĩ lạm dụng tình dục”thì chúng con đã chia rẽ rất nhiều, người thì đau xót vì tin ấy, người thì phản đối. Rồi quan điểm không được dùng bao cao su hay phá thai cũng làm chúng con khó chịu và đa phần giáo dân giáo xứ chúng con không đồng tình (con nghĩ giáo xứ khác cũng có tỷ lệ của nó), chúng con đã bị chỉ trích về vấn đề cải đạo hôn nhân khác tôn giáo và chúng con đã phải đuối lý đến phải ủng hộ quan điểm đó… Ai cũng cho rằng các vị Giám mục đã không sáng suốt khi đã có những nhận định và góp ý cho bản hiến pháp. 

Thứ tư, các Ngài Giám mục không thể đại diện toàn thể dân chúa Việt Nam để góp ý hiến pháp! Nhưng các Ngài đã làm như rằng cả giáo hội gần 7 triệu giáo dân cũng đồng quan điểm với các Ngài. Đây là quyền chính trị của mỗi cá nhân cớ sao các Ngài lại lợi dụng chúng con để gây sức ép? Điều này con rất mong các Ngài trả lời cho chúng con rõ??? Con cho rằng mỗi vị Giám mục cũng là một công dân thì cũng sẽ là một bản góp ý theo ý kiến cá nhân chứ không thể là HĐGM hay là các giám mục Công giáo Việt Nam, con cho đây là mạo danh của các Giám mục khác! Mong các Ngài suy ngẫm lại.

Cuối cùng, con chỉ xin chúc các Ngài nhiều sức khỏe trong ơn Chúa và được sự soi sáng của Chúa Thánh thần trong mọi việc và nhất là con nhắc nhở các Ngài Giám mục và hàng giáo sĩ chúng ta luôn đọc “kinh sáng soi” trước khi làm việc gì! Con đọc kinh sáng soi nhiều lần trong ngày và trong 7 ngày để viết thư này. Con cũng đã không gửi trước lễ Phục Sinh để làm các Ngài an lòng!

Kính thư!

Phaolô Nguyễn Trọng Nghĩa

2011/04/05

Vấn đề Công giáo miền bắc Việt Nam qua tư liệu lưu trữ Ba Lan (1954-1956)

Wojciech Ketrzynski, thành viên phái đoàn Công giáo Ba Lan được Việt Nam mời qua thăm vào mùa xuân 1955, đã kết luận bản báo cáo như sau: "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) phải đương đầu với một nhiệm vụ hết sức khó khăn: ngay từ bước đầu, phải tìm cách xây dựng Nhà nước, đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh gian khổ nhằm thống nhất đất nước. Trong tổng thể các vấn đề chính trị của Việt Nam, yếu tố Công giáo không giữ một vai trò quan yếu. Tuy nhiên, là nhóm tôn giáo có tổ chức, thuần nhất và lớn mạnh nhất, có lẽ Công giáo có một trọng lượng nhất định trong cán cân quyền lực chung".[1]  Ketrzynski là một người Công giáo thuộc tổ chức Pax,[2] nhận định của ông tóm tắt khá chính xác vấn đề Công giáo đặt ra cho các nhà lãnh đạo VNDCCH trong những ngày tiếp theo chiến thắng Điện Biên Phủ.

Bài này có mục đích soi rọi vấn đề Công giáo trong những năm độc lập đầu tiên ở VNDCH dưới ánh sáng của những tư liệu tìm được trong thư khố Ba Lan. Tư liệu của một nước "anh em" là một nguồn bổ ích vì trước hết, cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể tham khảo thư khố của Việt Nam về vấn đề này. Liên Xô và Trung Quốc đương nhiên là "hệ quy chiếu" và mô hình của VNDCCH trên những vấn đề quốc tế lớn. Nhưng ngay sau khi Hiệp định Genève được kí kết, nước Cộng hoà Nhân dân Ba Lan đã được VNDCCH yêu cầu giúp đỡ để giải quyết vấn đề gay go do thiểu số Công giáo đặt ra, nhất là vấn đề người Công giáo ồ ạt di cư vào Nam. Do tầm quan trọng của đạo Ki tô ở Ba Lan, các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam cho rằng các đồng chí Ba Lan là những người có khả năng nhất trong các nước anh em có thể làm cố vấn cho họ trong vấn đề hội nhập người Công giáo dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bài này chủ yếu khai thác những báo cáo của các đại sứ Ba Lan tại Hà Nội cũng như những báo cáo của phái đoàn Ba Lan trong Uỷ hội Quốc tế Giám sát và Kiểm soát[3] được lưu trữ tại Thư khố Bộ ngoại giao tại Warsaw (AMSZ). Trong bài này, tôi sẽ trình bày vấn đề Công giáo trong những năm đầu của VNDCCH độc lập nhìn từ quan điểm cộng sản (chính phủ Việt Nam cũng như các cố vấn Ba Lan). Quan điểm của thiểu số Công giáo cũng sẽ được đề cập.
Trước hết, tôi sẽ trình bày tóm gọn mối quan hệ giữa người Cộng sản và người Công giáo từ ngày thành lập nước VNDCCH, tức là những năm chiến tranh kháng Pháp. Điều này cần thiết vì không thể nào thấu hiểu tình hình hết sức căng thẳng năm 1954 nếu không có trong đầu lịch sử mối quan hệ phức tạp Cộng sản – Công giáo trong thời kì chiến tranh giành độc lập. Sau đó, theo trình tự thời gian, tôi sẽ trình bày: thứ nhất, phân tích vấn đề Công giáo của Đại sứ Ba Lan, đặc biệt trong năm 1955 ; thứ nhì, các báo cáo của Đoàn đại biểu Ba Lan đi thăm Việt Nam tháng 4 và 5.1955 theo lời mời của VNDCCH. Cuối cùng, tôi sẽ tìm hiểu quá trình hợp tác trong năm 1956 giữa hai nước, cũng như tác động của những biến cố Mùa thu 1956 ở Trung Âu vào sự hợp tác Ba Lan – Việt Nam.
.
Cộng sản và Công giáo trong cuộc Chiến tranh giành độc lập: từ liên minh đến bất khả hợp tác
Câu chữ của Wojciech Ketrzynski trong đoạn trích dẫn ở đầu bài cũng phản ánh quan điểm của người Cộng sản Việt Nam đối với thiểu số Công giáo trong thời kì chiến tranh giành độc lập. Tuy Công giáo không phải là vấn đề trọng tâm đối với nền độc lập, song tranh thủ được sự ủng hộ của người Công giáo là một quan tâm không nhỏ để giành chính quyền hay xây dựng chế độ cộng sản. Do di sản quá khứ xâm lăng của Pháp, và do tính chất chống tôn giáo của chủ nghĩa cộng sản, Việt Minh nghi ngại người Công giáo, song cho đến năm 1951, chính sách của họ nói chung là đoàn kết toàn dân, trong đó có người Công giáo. Thật vậy, đối với đảng cộng sản, đây là vấn đề chiến lược. Không muốn lộ diện cộng sản, Việt Minh muốn tập hợp mọi giai cấp trong cuộc đấu tranh vì độc lập, kẻ cả giai cấp tư sản và thiểu số Công giáo.[4] Sự tham gia của hai thành phần này sẽ đem lại cho Việt Minh một diện mạo tốt đẹp trên trường quốc tế, chứng tỏ Việt Minh là liên minh đa dạng của toàn thể dân tộc.
Hơn nữa, tranh thủ được Công giáo trong những năm 1945-1947 là điều quan trọng đối với Việt Minh vì đó là thời kì rất khó khăn: họ phải tính đến ảnh hưởng của Công giáo tại những vùng then chốt ở đồng bằng sông Hồng và tại một số vùng ở Nam Bộ là nơi Việt Minh vẫn còn yếu. Để thực hiện mục tiêu này, Việt Minh đã đẩy mạnh công tác Công giáo vận, như ta có thể nhận thấy qua rất nhiều những truyền đơn và sách báo mà Thư khố Quân đội ở Vincennes (Pháp) còn lưu trữ.
Hồ Chí Minh là người kiến trúc sư lớn của chính sách đoàn kết dân tộc đối với người Công giáo. Chính sách này đã mang lại kết quả ngay từ đầu tháng chín 1945, khi bốn vị giám mục Công giáo thừa nhận ông là chủ tịch chân chính của nước VNDCCH. Lên nắm chính quyền, ông không ngần ngại cử Nguyễn Mạnh Hà, người Công giáo, làm bộ trưởng Bộ kinh tế trong Chính phủ đoàn kết dân tộc đầu tiên. Trong phái đoàn Việt Nam sang thương lượng ở Fontainebleau, ông để cả Nguyễn Đệ tham gia vì Nguyễn Đệ có quan hệ tốt với người Pháp và giới Ngân hàng Đông Dương. Sự hiện diện của những nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Minh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp, tại cuộc lễ tấn phong giám mục Lê Hữu Từ và lễ thành lập Liên Đoàn Công Giáo (không nằm trong Việt Minh) tháng mười 1945 ở Phát Diệm, cũng chứng tỏ ý muốn thu hút thiểu số Công giáo. Nhân dịp này, Hồ Chí Minh còn cử tân giám mục Phát Diệm làm Cố vấn Tối cao của Chính phủ ![5] Các cuộc tiếp xúc Công giáo – Cộng sản ở ngoài bắc, là vùng chủ yếu do Việt Minh kiểm soát, đều là những cuộc gặp trực tiếp, và ở cấp cao nhất, còn ở trong nam, là vùng sớm bị Pháp chiếm đóng, các cuộc tiếp xúc diễn ra một cách bán chính thức.
Không những thế, Việt Minh đã ban hành những chỉ thị nghiêm ngặt, cấm đoán mọi hành động xúc phạm tôn giáo, nhất là việc phá huỷ nơi thờ cúng, người phạm tội có thể bị xử tử hình.[6] Đây là một cố gắng thực sự nhằm hạn chế bất hoà đối với người Công giáo. Năm 1949, uỷ viên nội vụ Nam Bộ Ung Văn Khiêm nghiêm cấm "mọi hành động phẫn nộ hay khiêu khích đối với người Thiên chúa giáo".[7] Không những không cấm đoán việc thờ chúa, Việt Minh còn cho phép tổ chức những cuộc đại lễ nhân những ngày lễ đạo trọng đại. Mỗi năm vào dịp Nô-en, bao giờ Hồ Chí Minh cũng gửi thư chúc mừng đồng bào Công giáo. Các báo cáo của bề trên dòng Thừa sai Paris (MEP), vốn chống đối Việt Minh, đều ghi nhận rằng, mặc dầu chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Việt Minh vẫn tôn trọng nhà cửa của giáo hội, khác hẳn Quân đội Viễn chinh Pháp không ngần ngại chiếm đóng hoặc phá huỷ cơ ngơi của các tôn giáo. Như một giáo sĩ thừa sai viết đầu năm 1949: "Nói chung, ít nhất là ở ngoài mặt, chính sách của VM tỏ ra khoan dung. Dường như người Công giáo, với tư cách người Công giáo, không bị khó dễ gì hơn là các thành phần khác trong dân chúng (...) Rõ ràng là có chỉ thị từ cấp cao (...) Thực sự đây là cả một chính sách nhằm tranh thủ người Công giáo."[8] Về phía Công giáo, họ tích cực tham gia phong trào dân tộc chủ nghĩa, vì muốn tiêu trừ lời lên án Công giáo là "phản quốc" đã đè nặng lên đầu cộng đồng tín đồ từ ngày Pháp xâm chiếm Việt Nam.[9] Có thể khẳng định rằng trong thòi kì đầu của cuộc kháng chiến, người Công giáo và người Cộng sản đã kinh qua một thử nghiệm cộng tác tương tự như tình hình ở Pháp trong Đại chiến Thế giới lần thứ II. Sự hợp tác được biện minh bằng sự nghiệp độc lập.
Nhưng với thời gian, người Công giáo đứng trước một lưỡng đề: những chiến sĩ kiên cường nhất trong cuộc đấu tranh giành độc lập là người Cộng sản, mà dự phóng xây dựng xã hội của Cộng sản lại không phù hợp với quan niệm của họ. Trong luận án tiến sĩ, tôi đã chứng minh rằng sự hợp tác của người Công giáo với cuộc kháng chiến của người Cộng sản (chủ yếu là ở các địa phận giám mục miền bắc) đã tiếp tục cho đến năm 1949.
Đối với người Công giáo, sự liên minh này đã quay ngược trong giai đoạn 1950-1951 là thời kì mà họ vẫn còn tìm cách giữ thế tự trị, không theo kháng chiến cộng sản và cùng không theo chính phủ Bảo Đại lệ thuộc Pháp.[10] Rõ ràng lúc đó họ không muốn bị sử dụng làm công cụ như phía Việt Minh cũng như phía Pháp muốn họ làm. Ngoại trừ một thiểu số tham gia hàng ngũ kháng chiến Việt Minh, từ năm 1952 trở đi, người Công giáo dứt khoát cự tuyệt sự liên minh với Cộng sản: cuộc sống dưới chính thể Việt Minh ở miền bắc, các sự kiện quốc tế ở Trung Quốc và Triều Tiên từng bước đưa họ tới chỗ nghi kị Việt Minh. Không tìm ra con đường thứ ba – không đi với Việt Minh, cũng không đi với Pháp – cuối cùng họ đã chọn giải pháp ít xấu nhất:  quy hồi chính phủ Bảo Đại lúc đó đang thương lượng với Ngô Đình Diệm.
Thực ra, chính sách bắt tay của VNDCCH là một chủ trương chiến lược, song người Cộng sản vẫn rất nghi ngại người Công giáo, kể cả những người Công giáo đã trở thành Cộng sản. Chẳng mấy lúc, các nhóm Công giáo tham gia kháng chiến đều bị Đảng kiểm soát chặt chẽ, mảnh đất hoạt động của họ bị thu hẹp. Sau thắng lợi của Cộng sản ở Trung Quốc, chế độ trở thành cứng rắn hơn. Sự có mặt của các cố vấn Trung Quốc nhất là từ 1953 trở đi, chủ trương tiến hành "đấu tranh giai cấp" và phát động cải cách ruộng đất trong những vùng kháng chiến kiểm soát (ở những nơi có nhiều giáo dân) dẫn tới sự li khai với Việt Minh lúc đó cũng không còn giấu giếm bản chất cộng sản của mình nữa. Song, đối với người Cộng sản, người Công giáo chọn lựa như vậy là phản bội.
Mối quan hệ sóng gió trong thời kì 1945-1954 cho ta hiểu tại sao trong những năm tiếp theo chiến thắng Điện Biên Phủ, tình hình trở nên căng thẳng giữa Công giáo và Cộng sản. Tuy không phải là vấn đề trung tâm, vấn nạn Công giáo có một trọng lượng không nhỏ trong đường lối chính sách chung của chế độ VNDCCH non trẻ. Đặt biệt trong hai lãnh vực: một là xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, hai là thống nhất đất nước như Hiệp định Genève đã quy định.
Vấn đề Công giáo ở thời điểm 1954, nhìn từ góc độ Cộng sản, có thể tóm tắt như sau: hơn hẳn mọi tổ chức tôn giáo hay chính trị nào khác, Giáo hội Công giáo trước tiên là một lực lượng có tổ chức chặt chẽ, với những giá trị chống cộng, răm rắp vâng lời bề trên. Thứ nữa, điều nguy hiểm là về mặt địa lí, họ sống tập trung ở một số thôn xã và huyện thuộc những vùng có vị trí chiến lược. Thêm vào đó, việc họ phục tùng Vatican được xem như bằng chứng rằng họ là "tay sai của đế quốc ngoại bang", nhất là từ khi giáo hoàng Pie XII đọc bài diễn văn chống cộng. Cuối cùng, một bộ phận khá lớn giáo dân ở miền nam và ở cả miền bắc tin tưởng vào lãnh tụ miền nam là Ngô Đình Diệm, một người Công giáo. VNDCH vừa đại thắng thực dân Pháp, nay lại gặp phải sự đối nghịch mạnh mẽ của đa số người Công giáo chống lại Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì những lẽ trên, Giáo hội Công giáo khiến cho chính quyền VNDCCH e ngại và nghi kị, coi là đối thủ của chế độ mới.
Tuy các nhà lãnh đạo miền bắc ý thức được những khó khăn trong vấn đề chỗ đứng của người Công giáo trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa sau Hiệp định Genève, họ vẫn bị bất ngờ trước là sóng di cư vào nam của đông đảo người Công giáo bắt đầu từ tháng bảy 1954 và kéo dài suốt một năm sau đó. Cuộc di cư ồ ạt, ngày càng đông đảo trở thành mối quan tâm lớn cho giới lãnh đạo VNDCCH. Nó có thể tác động tai hại vào ưu tiên chính trị số một trong đường lối của chính quyền: thống nhất đất nước thông qua cuộc tổng tuyển cử tự do ở cả hai miền nam bắc vào tháng bảy 1956, theo quy định của Tuyên bố cuối cùng Hội nghị Genève.[11]
Cuộc di cư sau Hiệp định Genève đã diễn ra như thế nào ? Ngoài việc tập kết lực lượng quân sự vào hai vùng trên và dưới vĩ tuyến 17, Hiệp định Genève còn quy định rằng thường dân có quyền chuyển vùng trong vòng 300 ngày (tức là cho đến ngày 18 tháng năm 1955). Biện pháp này hết sức cần thiết để miền bắc có thể đưa 85 000 bộ đội Việt Minh và thân nhân từ miền nam ra miền bắc, và để miền nam có thể đưa cả binh lính và thường dân Pháp lẫn quân đội và chính quyền Bảo Đại từ bắc vào nam.
Thoạt đầu, việc di cư thường dân từ bắc vào nam chủ yếu chỉ diễn ra ở thành thị (chủ yếu là các gia đình công chức). Nhưng rất nhanh chóng, nó lan ra vùng nông thôn, đặc biệt là vùng giáo dân sống tập trung. Các nhà lãnh đạo miền bắc cũng như quân đội Pháp[12] đều không tiên liệu một cuộc di cư ồ ạt như vậy, với đa số là giáo dân (78%). Phong trào này bắt đầu từ tháng bảy 1954, ngay sau ngày kí Hiệp định Genève, tăng vọt lên vào tháng chín – tháng mười rồi tiếp tục phát triển sau tháng năm 1955 là kì hạn chót. Khoảng 78% người di cư là giáo dân, vào nam cùng với một bộ phận quan trọng của hàng giáo phẩm (3 giám mục, 618 linh mục). Đến cuối năm 1955, ở lại miền bắc còn 40% giáo dân (456 720 người) và 37% giáo sĩ (375 người).
Quan điểm phê phán về vấn đề Công giáo của đại sứ Ba Lan
(tháng chạp 1954 – tháng tư 1955)
Ngay trước ngày đại sứ Ba Lan đầu tiên, Tomasz Pietka, đặt chân đến Hà Nội tháng chạp 1954[13] Ba Lan đã nhận được yêu cầu giúp đỡ. Thật vậy, chính phủ Hồ Chí Minh đã yêu cầu Liên Xô giúp đỡ trong việc tập kết các đơn vị Việt Minh và vũ khí trang bị từ nam ra bắc. Nhưng hàng hải dân sự Liên Xô không có ngay tàu chuyên chở, và đúng lúc đó thương thuyền Jan Kilinski lại có mặt ở Biển Đông, nên tàu này đã được trao nhiệm vụ vận chuyển người và vật tự quân sự trong suốt thời gian từ tháng mười 1954 đến tháng bảy 1955.[14]
Ngay khi đại sứ Ba Lan tới Hà Nội, các nhà lãnh đạo Cộng sản đã yêu cầu Ba Lan giúp đỡ giải quyết vấn đề Công giáo. Trong bản báo cáo đầu tiên, tháng giêng 1955, đại sứ Tomasz Pietka, trong phần nội trị, đã xếp vấn đề Công giáo lên hàng đầu và nói tới yêu cầu giúp đỡ của chính phủ Việt Nam: “Vấn đề di cư của người Công giáo vẫn tiếp diễn: ‘Chính phủ và Đảng đã làm tất cả những gì có thể để giảm bớt, nhưng vẫn gặp những khó khăn to lớn (...). Vấn đề giáo dân sẽ còn đè nặng lên chính sách nội trị của VNDCCH trong thời gian tới đây, vì vậy mà họ vẫn thường yêu cầu sứ quán giúp đỡ và tham vấn’[15]
Trong bài phân tích đầu tiên về nguyên nhân cuộc di cư ồ ạt, Pietka liệt kê sự tuyên truyền của Pháp và Mĩ, và nói đến cả các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Một nhân tố khác có thể giải thích những khó khăn này là bệnh bè phái ở các cấp cơ sở trong Đảng. Những đồng chí đảng viên ở cơ sở nói rằng: ‘Tám năm dài trên rừng núi, tôi chịu bao nhiêu hi sinh gian khổ để giải phóng cho họ, mà bây giờ họ lại bỏ đi!’. Thế là họ dùng những biện pháp cứng rắn như bác đơn di cư mà không một lời giải thích ”. Pietka cũng phê bình “họ thiếu hiểu biết về những vấn đề Công giáo” trong lĩnh vực tuyên truyền: “Cho đến nay, chỉ có phía Đảng mới tiến hành công tác nâng cao ý thức (quần chúng và đảng viên), không huy động Mặt trận Tổ quốc tham gia vào việc này. Chúng tôi cũng đã góp ý kiến”. Trong bản báo cáo tiếp theo, Pietka hoan nghênh việc mở rộng Mặt trận Tổ quốc ra những giới xã hội khác, đặc biệt là chủ trương “bắt tay người Công giáo” thể hiện qua việc Linh mục Vũ Xuân Kỷ tham gia Đại hội Liên Việt tổ chức trong tháng giêng 1955 tại Hà Nội.
Theo Pietka, một nguyên nhân quan trọng khác của làn sóng di cư là tình hình kinh tế bi đát ở miền Bắc Việt Nam. Trong bản báo cáo tháng hai, ông viết: “Thị trường cần được cung cấp thêm lúa gạo và các nông sản khác đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Cần phải ngăn ngừa nạn đói có thể xảy ra ở khu 4 là nơi hội đủ những triệu chứng (hạn hán, ruộng đất bỏ hoang (...). Nông thôn quá đông dân. Nông dân bỏ ra thành phố nhưng không tìm ra việc làm (các nhà máy không hoạt động), chỉ còn cách buôn bán vặt trên vỉa hè hoặc đi bán rong...). Ở nông thôn, thấy rõ những dấu hiệu thiếu đói gây ra bất mãn, ngay trong những người đã tham gia kháng chiến, là những người đã quen ăn rễ ăn củ để tiếp tục chiến đấu giành lại tự do cho tổ quốc (...). Gặp những người phụ trách những bộ quan trọng của chính phủ, nhiều khi thấy họ rơm rớm nước mắt khi nói tới những vấn đề của họ.”  Pietka còn nhấn mạnh không chỉ có vấn đề người Công giáo mà còn có vấn đề những người không Công giáo: “Trong đời sống nội bộ của VNDCCH, tồn tại cuộc di cư của giáo dân. Có thể nói vấn đề di cư đã tăng lên trong thời gian vừa qua, không những người Công giáo mà cả người không Công giáo cũng xin đi vào nam. Nguyên nhân tình trạng này là nạn thiếu lương thực, thất nghiệp, và cả chiến dịch tuyên truyền Mĩ-Pháp vẫn tiếp tục khai triển”.[16] Sang tháng ba, tình hình vẫn tiếp tục nghiêm trọng.[17]
Tháng tư 1955, một báo cáo khác xác nhận bức tranh kinh tế bi thảm mà tháng trước đại sứ Pietka đã phác hoạ. Ông nêu lên nguy cơ xảy ra nạn đói ở miền bắc do sự kém cỏi của chính quyền: “Năm ngoái, các đồng chí Việt Nam đã không biết xử lí vấn đề với sự nghiêm chỉnh cần thiết. Người Pháp đã báo trước với họ về nguy cơ đói kém, song chính phủ bạn đã khẳng định sẽ giải quyết thành công bằng cách tăng suất, đẩy mạnh thuỷ lợi và nhất là trồng những loại cây sản lượng cao (khoai, sắn, đậu). Chính sách này đúng nhưng chỉ đúng về dài hạn. Nếu Việt Nam không nhận được viện trợ to lớn về lúa gạo, thì tình hình sẽ trở thành nguy ngập và cuộc bầu cử sẽ hết sức bấp bênh”.[18] Quả vậy, nhờ viện trợ Trung Quốc nên tháng năm 1955, VNDCCH đã tránh được nạn đói.[19]
Đại diện Ba Lan trong Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát, Jerzy Grudzinsky, cũng nhất trí với phân tích tình hình kinh tế nói trên. Trong bản báo cáo đề ngày 27/4/1955, Grudzinsky coi việc người Công giáo di cư “là một trong những vấn đề lớn nhất đặt ra cho Uỷ hội Quốc tế trong thời gian qua”. Ông viết tiếp: “Một vài nhóm cực đoan trong dân chúng ra sức kích động di cư, phối hợp với cuộc vận động của giáo hội, của chính quyền Pháp, của bè lũ Bảo Đại. Tình hình này tiếp tục xấu đi do hạn hán, mất mùa đang đe doạ vùng Công giáo. Trên lãnh thổ của VNDCCH, giáo dân bắt đầu tổ chức những cuộc tập họp lớn, cả vạn người, yêu cầu được di cư vào nam”.[20] Chắc ông muốn nói tới sự kiện Ba Làng, nơi 10 000 giáo dân tụ tập lại đòi đi nam, bị Quân đội giải tán trong khi họ hoài công đứng đợi phái đoàn Uỷ hội Quốc tế.[21]
Đối với Grudzinski, tình hình những giáo dân muốn di cư tuyệt vọng tới mức Uỷ hội Quốc tế (thông qua đại diện Ba Lan) đã phải nhờ đến cả chiếc tàu Kilinski của Ba Lan từ tháng mười 1954 đã vận chuyển bộ đội Việt Minh và gia đình của họ từ nam ra bắc. “Hiện nay, tàu Kilinski của ta phải lo di chuyển giáo dân vào nam. Cho đến ngày 18 tháng năm, nó sẽ phải chở 10 000 người. Đang có tin đồn người Pháp muốn đề nghị kéo dài thời hạn 300 ngày cho dân chúng có thể chuyển vùng”. Trong báo cáo tháng hai 1955, đại sứ Pietka xác nhận: “chính phủ ta đồng ý để cho tàu Kilinski chở 5400 giáo dân từ bắc vào nam, trong tinh thần ‘bắt tay người Công giáo’.”[22]
Cuộc viếng thăm miền Bắc của Phái đoàn Ba Lan đặc biệt (tháng tư-năm 1955) và sự thất bại tương đối của chuyến đi
Thực ra, chính sách Công giáo của VNDCCH chỉ là một bộ phận trong đường lối chung của VNDCCH về vấn đề thống nhất đất nước. Và khi VNDCCH yêu cầu Ba Lan giúp đỡ thì mục tiêu cụ thể và ngắn hạn rất rõ ràng -- cuộc tổng tuyển cử tháng sáu 1956 -- như bản báo cáo tháng tư 1955 xác nhận: “Trong tương lai, có thể xem sự hợp tác Ba Lan - Việt Nam trong lãnh vực này là cần thiết, ít nhất cho đến khi thực hiện bầu cử năm 1956”.[23]
Cho nên mùa xuân 1955, đáp lời yêu cầu của phía Việt Nam, Ba Lan đã cử sang miền Bắc một phái đoàn gồm 3 thành viên, hai linh mục Josef Keller, Mieczylaw Suwala, và một biên tập viên, Wojciech Ketrzynski. Hai linh mục là hội viên Pax là tổ chức chủ trương hợp tác với chế độ cộng sản, còn người thứ ba, cư sĩ, chắc là người của Đảng Cộng sản. Phái đoàn đã làm việc khoảng 6 tuần lễ, từ ngày 13.4 đến ngày 30.5.1955.  Thời điểm của chuyến đi này chắc không ngẫu nhiên, vì trong thời gian đó, cụ thể ngày 16.5 là hạn chót của việc tập kết quân đội và dân chúng[24] phía bắc và phía nam vĩ tuyến 17. Đó là kỳ hạn cuối cùng cho những ai muốn di cư.
Trong báo cáo thứ nhất,[25] các thành viên phái đoàn nhắc lại nhiệm vụ chủ yếu của chuyến công tác: “Toàn bộ công việc của chúng tôi là góp phần vào việc bình thường hoá các quan hệ tôn giáo với mục tiêu là cuộc bầu cử sắp tới và mục đích là mang lại cho chính quyền dân chủ những nhân tố cần thiết cho đường lối chính sách trong lĩnh vực này”. Cụ thể hơn nữa, phái đoàn Ba Lan có ba nhiệm vụ: “1) trong phạm vi có thể, chấm dứt không khí hoảng loạn trong cuộc di cư, 2) hỗ trợ Uỷ ban Công giáo yêu nước yêu hoà bình mới thành lập nhằm củng cố uy tín và triển khai công tác Công giáo vận, 3) hợp tác với đại diện chính quyền dân chủ trong việc triển khai chính sách Công giáo”.
Phái đoàn Ba Lan đã làm được gì để thực hiện nhiệm vụ quan trong nhất, liên quan tới cuộc di cư của giáo dân ? Trong bản báo cáo đầu tiên, họ ghi nhận: “Tình hình trong giới Công giáo vẫn căng thẳng, không khí hoảng hốt và trốn chạy vẫn nặng nề, đặc biệt ở vùng Vinh”.[26] Chúng ta cần nhớ rằng kì hạn 18 tháng năm càng làm tăng không khí hoảng loạn. Trước tình hình này, W. Ketrzynski và Linh mục Suwala có nhiệm vụ tuyên truyền, và được cử đi các nơi để làm việc này. Họ đã phát biểu tại ít nhất 16 cuộc mít tinh, đề cao tình hình người Công giáo ở Ba Lan và nói tới viễn tượng tồn tại của đạo Thiên chúa được chế độ dân chủ bảo đảm.
Đối với W. Ketrzynski,[27] “nỗ lực lớn nhất đã được tập trung ở khu Bốn, trong địa phận Vinh, là nơi tình hình nghiêm trọng nhất. Trong hai chuyến về đây, phái đoàn đã đọc sáu bài diễn văn trong các cuộc mít tinh quần chúng, đặc biệt trong cuộc đi thăm hai địa điểm tập trung những người muốn di cư (...) Ở khu Ba, chúng tôi đã tổ chức ba cuộc mít tinh, trong đó có cuộc mít tinh với dân chúng ở Ba Làng là nơi đã xảy ra xô xát đổ máu”.[28] Hai người đã đọc ba bài diễn văn ở Phát Diệm, hai ở Hải Phòng và hai ở Hà Nội, bài cuối cùng ở Nhà hát lớn Hà Nội ngay trước khi họ lên đường. Các bài nói của họ sau đó đã được in thành tập sách nhỏ bằng tiếng Việt và tán phát tại các vùng Công giáo. Trong các cuộc gặp gỡ với những cộng đồng giáo dân, phái đoàn Ba Lan cũng đã phân phát các dụng cụ lễ nghi (kể cả áo lễ) mà người Công giáo thiếu thốn.
Dễ thấy rằng những công việc kể trên không mang lại kết quả gì đáng kể, nếu không nói là vô hiệu. Trong phần kết của bản báo cáo, ta có thể đọc: “Phái đoàn đã tới quá muộn để có thể ngăn ngừa một cách hiệu quả một hoạt động đã được tiến hành từ lâu, nhằm tạo không khí xung đột giữa VNDCCH và những giới Công giáo. Hiển nhiên là lãnh đạo VNDCCH đã không được chuẩn bị để ngăn ngừa hoạt động này một cách hiệu quả, tuy rằng mùa đông năm ngoái còn có thể làm được gì”. Phải nói rằng trái ngược với nhận xét này của phái viên Ba Lan, chính quyền Việt Nam tuy bị bất ngờ vốn đã đẩy mạnh công tác Công giáo vận. Ngay từ đầu tháng bảy 1954, đặc biệt là Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chính sách bắt tay với người Công giáo, kêu gọi giáo dân, và khẳng định chính sách của VNDCCH là bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng.[29]
Phái đoàn thừa nhận đã thất bại vì ở cuối bản báo cáo, họ cho biết “để phản ứng lại chuyến đi thăm của phái đoàn, một chiến dịch tuyên truyền chống Ba Lan đã được đẩy mạnh trong giới Công giáo Việt Nam”. Đúng là họ đã sang Việt Nam quá muộn để hi vọng có thể  thuyết phục được ai trong khi mà hàng chục vạn người đã ra đi. Vả lại, hai người ngoại quốc, không biết tiếng Việt, lại do một chính quyền đang tìm cách ngăn cản giáo dân ra đi gửi tới, thử hỏi họ làm gì được? Tất nhiên là không, ngoài sự phản đối mạnh mẽ.
Nhiệm vụ thứ nhì của phái đoàn là giúp Uỷ ban toàn quốc những người Công giáo yêu Tổ quốc yêu Hoà bình.[30] Tổ chức này được thành lập ngày mồng 3 tháng ba 1955 theo quyết định của Mặt trận Tổ quốc, giữa lúc mà giáo dân ồ ạt rời bỏ miền bắc.[31] Cuộc họp bàu ra một Ban chấp hành, với Linh mục Vũ Xuân Kỷ làm chủ tịch, luật sư Dương Văn Đàm làm phó chủ tịch.[32] Đây không phải là một tổ chức quần chúng, chỉ là một uỷ ban có chức năng “phổ biến chính sách của nhà nước trong đồng bào Công giáo, động viên đồng bào ủng hộ chế độ và tham gia các tổ chưcc quần chúng trong Mặt trận Tổ quốc”.[33] Ngay ngày hôm sau, khâm mạng Toà thánh John Dooley và các giám mục giáo tỉnh miền bắc, trong một lá thư đề ngày 12 tháng ba, đã lên án uỷ ban này, coi đó là “một hiểm hoạ cho sự thống nhất của Giáo hội Việt Nam”.
Ngay trong bản báo cáo đầu tiên, các thành viên phái đoàn đã nhận định rằng “uỷ ban này quá hạn hẹp và quá xa cách những giới Công giáo có ảnh hưởng. Họ cần phải tìm cách mở rộng cơ sở để tăng thêm tính cách đại diện của mình”.[34] Phái đoàn cho rằng muốn mở rộng ảnh hưởng, cần phải có một nhóm cư sĩ được đào tạo để triển khai Công giáo vận. Họ đã cung cấp cho Uỷ ban những tư liệu tuyên truyền trong giới Công giáo của Ba Lan. Ngoài ra, họ cũng tìm cách đưa Uỷ ban tiếp cận Toà giám mục Hà Nội. Họ xếp đặt một cuộc gặp giữa hai linh mục lãnh đạo uỷ ban với Giám mục Trịnh Như Khuê là người đã treo chén hai linh mục này. Quan hệ giữa Uỷ ban và Toà giám mục vẫn tiếp tục căng thẳng.
Trong thời gian ở Việt Nam, họ đã có mười một buổi làm việc với Uỷ ban, xem ra cũng không mang lại kết quả. Trong bản báo cáo cuối cùng của phái đoàn, Wojciech Ketrzynski kết luận như sau: “Một trong những mục đích chính của phái đoàn là tổ chức tại chỗ một phong trào xã hội Công giáo về lâu về dài có thể đi theo đường lối hợp tác giữa Giáo hội và chính quyền. Trên thực tế, Việt Nam chưa hề có một phong trào như vậy. Uỷ ban Công giáo toàn quốc liên lạc với Mặt trận Tổ quốc hiện nay hết sức thiếu đoàn kết và không có khả năng công tác”.[35]
Ngoài các cuộc gặp Uỷ ban Công giáo, phái đoàn Ba Lan dành nhiều thời gian để gặp hàng giáo phẩm, nhất là ở Hà Nội và ở các giáo phận Vinh, Thanh Hoá và Thái Bình là những nơi quan hệ đặc biệt khó khăn giữa Giáo hội và chính quyền sở tại. Những cuộc gặp gỡ giữa Giáo hội và Nhà nước đã được tổ chức nhằm “ ngăn ngừa những cuộc xung đột công khai có thể tác động tai hại về mặt quốc tế ”;[36] Nói chuyện với hàng giáo phẩm, phái đoàn cố gắng thuyết phục họ tin ở khả năng Giáo hội sống chung với chế độ: phái đoàn thông báo cho họ về tình hình ở Cộng hoà Nhân dân Ba Lan và trả lời những câu hỏi về “thái độ của người Công giáo Ba Lan đối với Giáo hoàng, cuộc sống vật chất của hàng giáo phẩm, của các dòng tu, về khả năng giảng dạy tôn giáo cho con em”.
Cuối cùng và quan trọng hơn cả, phái đoàn còn có nhiệm vụ thuyết phục các giám mục còn rất lần khân hãy tiếp xúc với Nhà nước. Trong thời gian ở Việt Nam, các phái viên Ba Lan đã tổ chức chín cuộc gặp những chức sắc của Giáo hội, cụ thể là giám mục Hà Nội Trịnh Như Khuê, giám mục Vinh, Trần Hữu Đức, các linh mục Tân, Liêm và Hiệp, cai quản những địa hạt mà giám mục đã bỏ vào nam (Thanh Hoá, Phát Diệm và Hải Phòng), và cả hai giám mục người Pháp thuộc dòng Đa Minh (Hedde và Jacq). Dường như họ không được đón tiếp niềm nở gì cho lắm, nhất là ở Hà Nội, Vinh và Thanh Hoá. Giám mục Hà Nội đã tỏ thái độ lạnh nhạt nếu không nói là ác cảm ngay từ lúc đầu: “Giám mục đã tỏ thái độ thù nghịch đối với phái đoàn, chỉ cho phép hai linh mục cử hành lễ thánh trong một nhà nguyện đóng kín ‘sine assistentia populi’ [không có giáo dân dự lễ]!”. Với giám mục Vinh cũng thế. Các giám mục này – phái đoàn đánh giá họ là “phản động” – đã quyết định ở lại và cương quyết kêu gọi giáo dân đừng bỏ đi.[37]
Nhiệm vụ “góp phần vào sự bình thường hoá quan hệ tôn giáo” của phái đoàn cũng không thành. Họ đã thất bại trong việc đưa Uỷ ban Công giáo xích lại gần hàng giáo phẩm. Người đã tổ chức được cuộc gặp gỡ chính thức tháng tư 1955 giữa phó thủ tướng Phạm Văn Đồng và giám mục Hà Nội không phải là phái đoàn Ba Lan mà là Nguyễn Mạnh Hà và thư kí của Giám mục là linh mục Phạm Hân Quynh.[38] Ông Nguyễn Mạnh Hà là một nhân sĩ công giáo miền Bắc. Người Pháp coi ông là người đứng đầu phe công giáo cấp tiến, có phần khuynh tả nữa.[39]  Khi Hồ Chí Minh thành lập chính phủ lâm thời liên hiệp dân tộc vào hồi thàng 8 năm 1945, thì theo đề nghị của Võ Nguyên Giáp, ông Hà đã nhận lời tham gia vào chính phủ và giữ chức bộ trưởng bộ kinh tế.[40] Sau khi chiến tranh bùng nổ vào tháng 12 năm 1946, ông vẫn giữ quan hệ tốt với các nhà lãnh đạo Việt Minh (Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp). Trong thời kì chiến tranh, nhiều lần chính quyền Pháp đã tiếp cận Nguyễn Mạnh Hà để tìm cách tiếp xúc với lãnh đạo Việt Minh. Năm 1951, ông bị tướng De Lattre trục xuất (vì không dung thứ lập trường của ông là chủ trương phải thương lượng với Việt Minh) và từ đó trở đi, sống ở Paris với bà vợ người Pháp. Quan tâm cho tình trạng Giáo hội sống dưới chế độ Cộng sản, tháng bảy 1954, ông sang Genève gặp các nhà lãnh đạo Việt Minh. Ông đề nghị đứng ra làm trung gian giữa VNDCCH và Giáo hội. Sau đó, ban lãnh đạo chính phủ có mời ông về Hà Nội hai lần trong năm 1955. Ông có chơi thân với linh mục Phạm Hân Quynh, là bí thư tòa giám mục, lại được giám mục Hà Nội là Trịnh Như Khuê nể vì, cho nên ông đã thuyết phục được giám mục đi gặp ban lãnh đạo chính phủ, để xác định mối tương quan sau này giữa giáo hội và nhà nước. Về điểm này ta chắc được rằng ông nguyễn Mạnh Hà đã đóng một vai trò quan trọng, vì thực ra phái đoàng Ba lan không có ảnh hưởng gì cả tới hàng giáo phẩm Việt Nam.
Cuối cùng, phái đoàn Ba Lan đã tác động thế nào đến pháp chế quy định mối quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước ? Họ đã có mấy lần gặp những nhà lãnh đạo chính quyền, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, nhất là Hoàng Quốc Việt, uỷ viên Thường vụ Đảng Lao động phụ trách các vấn đề Công giáo. Khi mới tới Việt Nam, phái đoàn đã than phiền là đảng anh em “thiếu một chỉ thị chính trị rõ ràng về vấn đề Công giáo”.[41] Rồi họ đưa ra đề nghị thành lập một hội đồng phụ trách các vấn đề thờ cúng và tôn giáo. Họ cũng tham gia soạn thảo những đạo luật cùng với Bộ tư pháp và luật sư Dương Văn Đàm. Ít nhất đó là điều Wojciech Ketrzynski viết trong báo cáo: “phái đoàn đã tích cực tham gia soạn thảo văn bản sắc lệnh về tự do tôn giáo và tự do tín ngưỡng. Văn bản này đã được phái đoàn sửa đi sửa lại nhiều lần, và về đại thể mà nói, văn bản cuối cùng là kết quả việc làm của phái đoàn (...). Phái đoàn cũng đã tham gia việc soạn thảo những điều khoản về Cải cách ruộng đất liên quan tới tài sản của nhà thờ, và việc giải quyết toàn bộ cơ sở tài chính của hoạt động Công giáo tại Việt Nam”.[42]
Đúng là ngày 14.6.1955,[43] sắc lệnh số 234 về vấn đề tôn giáo đã được Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng ban hành. Sắc lệnh này bảo đảm “quyền tự do tín ngưỡng và thờ cúng” cũng như các hoạt động kinh tế, văn hoá và xã hội của các tổ chức tôn giáo (kể cả việc giảng dạy đạo), và quy định cả cách đối xử đặc biệt cho các tổ chức tôn giáo trong cải cách ruộng đất. Đúng là có đôi chút cởi mở đối với việc hành đạo (nhất là ở Hà Nội) năm 1955, nhưng tình trạng này kéo dài không lâu. Hơn nữa, tình hình khác hẳn ở nông thôn, là nơi Đợt 5 của cuộc Cải cách ruộng đất được tiến hành một cách quyết liệt.[44]
Còn đối với phái đoàn Ba Lan, có thể đặt câu hỏi: “họ thực sự đã đóng góp được gì trong việc soạn thảo các văn bản?”. Chỉ khi nào hồ sơ về công việc chuẩn bị sắc lệnh về tôn giáo được mở ra công khai ở Thư khố Việt Nam, ta mới có câu trả lời dứt khoát. Theo ý kiến của người viết bài, thì đó chủ yếu là công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thật vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm tới việc đoàn kết tôn giáo, đặc biệt là Công giáo. Mặt khác, đóng góp của phái đoàn Ba Lan dù sao cũng hạn chế: các nước Dân chủ Nhân dân đều bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng theo mô hình của Hiến pháp Liên Xô.[45] Trong tác phẩm La Société retrouvée. Politique et religion dans l’Europe sovietisée (Xã hội tìm lại được mình. Chính trị và tôn giáo ở Châu Âu xô-viết hoá), nhà xã hội học Patrick Michel cho rằng tất cả vấn đề tuỳ thuộc cách diễn giải và áp dụng đạo luật này. "Thái độ của các chế độ (kiểu Xô viết) đối với tôn giáo ở mọi nơi đều tuân theo một nguyên tắc đơn giản: không cho phép bất cứ một sinh hoạt tôn giáo nào ở ngoài vòng kiểm soát của Nhà nước".[46]
Sự hợp tác Ba Lan - Việt Nam về những vấn đề tôn giáo và những hạn chế của nó(tháng chín 1955 – tháng chạp 1956)
Còn sự hợp tác của Ba Lan trong thời gian sau đó ? Thật ra mà nói, các đề nghị của cố vấn Ba Lan cũng không mang lại kết quả đáng kể nào. Chẳng hạn phía Việt Nam yêu cầu đại sứ Ba Lan Pietka kín đáo gửi sang (với cương vị phóng viên một tờ báo Công giáo, tránh dùng một chức vị quan phương) “ một cư sĩ Ba Lan từng trải có khả năng giúp lãnh đạo và Uỷ ban Công giáo trong vấn đề quan hệ Giáo hội – Nhà nước, tổ chức Uỷ ban Công giáo và trong công tác Công giáo vận ”, hình như không đi tới đâu. Tương tự, phía Ba Lan đề nghị mời những linh mục Việt Nam “chín chắn và tiến bộ ” sang Ba Lan học ở Trường đại học Thần học, cũng như đề nghị gửi sang Việt Nam những linh mục “ tiến bộ để giúp đào tạo linh mục Việt Nam trong tinh thần dân chủ[47] cũng không có kết quả.
Về phía Ba Lan có thể đơn giản là vì khó tìm ra những người sẵn sàng đi Việt Nam mà lại có khả năng, nhất là mùa xuân 1955 hàng giáo phẩm cũng như giáo dân Việt Nam đã tỏ ra nghi kị phái đoàn Ba Lan như thế nào. Về phía Việt Nam, sau tháng bảy 1956 không còn hi vọng sớm thống nhất đất nước, và làn sóng di cư cũng giảm đi, nên vấn đề Công giáo bớt quan trọng như trước. Sự hợp tác về tôn giáo với người Công giáo Ba Lan có lẽ bị coi là không đáng kể, so với sự hợp tác kinh tế hết sức quan trong với toàn bộ khối cộng sản.
Duy nhất có kết quả là đề nghị gửi sang Việt Nam tài liệu tuyên truyền về quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước Ba Lan, và đề nghị gửi sách thần học tiếng Latinh, đồ lễ như rượu lễ, bánh thánh. Song quan trọng nhất còn lại là sự trao đổi giữa Uỷ ban Công giáo Yêu nước của hai nước. Thật vậy, mùa thu năm 1955 (từ 7 tháng mười đến 5 tháng chạp 1955), một phái đoàn Việt Nam đã sang thăm Ba Lan. Năm sau, dự án gửi một phái đoàn chuyên gia về vấn đề tôn giáo sang Ba Lan vào mùa thu đã không thành.[48] Ba thành viên của Uỷ ban Công giáo Yêu nước (luật sư Dương Văn Đàm, linh mục Nguyễn Thành Tiến, linh mục Võ Thành Trinh) và thư kí Nguyễn Văn Đạt (chắc là người của Đảng có nhiệm vụ theo dõi họ) đã được hội Pax Ba Lan tiếp đón. Ngoài các cuộc gặp gỡ giữa hai tổ chức, phái đoàn Việt Nam đi thăm những thành phố lớn và các thánh đường.
Năm 1956, dự án gửi “một phái đoàn cán bộ Việt Nam chuyên gia về vấn đề tôn giáo[49] sang Ba Lan vào tháng 10 và 11 để làm việc về tư liệu Công giáo vận rốt không được thực hiện. Cuối cùng, một phái đoàn Uỷ ban Công giáo đã sang thăm Ba Lan vào tháng 10, sau khi đi thăm Cộng hoà Dân chủ Đức. Trong một bản ghi đề ngày 26.9.1956, vụ trưởng Vụ V Bộ ngoại giao ở Warszawa, Jerzy Gora tường trình cuộc gặp Hoàng Lương, Bí thư Đại sứ quán Việt Nam: phía Việt Nam than phiền về hai linh mục Hồ Thành Biên và Vương Đình Hải. Hai linh mục thuộc Uỷ ban Công giáo bị quy kết là trong thời gian ở Berlin, “họ đã tìm cách liên lạc với những linh mục (người Đức) chỉ trích tình hình tôn giáo ở Cộng hoà Dân chủ Đức Đối với phía Việt Nam, đây là một sai phạm nghiêm trọng, nên họ yêu cầu phía Ba Lan thu xếp để cho hai linh mục này tiếp xúc với những linh mục Ba Lan yêu nước “tốt”.[50] Tôi không tìm ra một bản báo cáo nào về chuyến đi này. Song, trong một bản ghi đề ngày 22.11.1956 về cuộc gặp Hoàng Lương, bí thư Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan, Bộ ngoại giao Ba Lan được thông báo “ nhà cầm quyền Việt Nam đã quyết định hoãn lại cuộc đi thăm Việt Nam của phái đoàn Công giáo Ba Lan. Lí do bí thư sứ quán Việt Nam đưa ra là ông chưa lên được chương trình thăm viếng, và sứ quán sẽ thông báo cho Bộ ngoại giao ngay khi vấn đề trở thành hiện thực”.[51]
Qua bản báo cáo này, ta có thể cảm thấy tình hình chính trị ở miền Bắc đã căng hơn, khi vai trò của Đảng bị đặt thành vấn đề sau Đại hội thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô (tháng 2.1956). Thật vậy, từ mùa thu 1956 trở đi, chính phủ VNDCCH bị phê bình mạnh mẽ về những bạo hành trong cải cách ruộng đất. Nhà báo Pháp Georges Chaffard đã viết về thời điểm 1956 hết sức nguy kịch của VNDCCH như sau: “1956 được đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng cải cách ruộng đất đã làm rúng động và suy yếu nghiêm trọng  những cơ cấu chưa vững mạnh gì cho lắm của chế độ. (...) Ở khắp nơi, cuộc cải cách ruộng đất đã được tiến hành một cách thô bạo và thiếu hiểu biết, làm cho làn sóng bất mãn lan tràn cả nước, có nơi đã biến thành nổi dậy (...). Sự bất mãn đạt tới cao điểm đúng vào lúc nổ ra biến cố Budapest và “ tháng mười Ba Lan ” làm chấn động cả Thế giới Cộng sản”.[52] Trong bối cảnh ấy, có lẽ các linh mục nghĩ họ có thể đi gặp những người có quan điểm phê phán về tình hình tôn giáo và chính trị ở Trung Âu. Đúng là lúc đó, tình hình châu Âu đang sôi sục với cuộc nổi dậy ở Berlin tháng sáu 1953, cuộc nổi dậy ở Poznan tháng sáu 1956, cuộc khởi nghĩa ở Budapest tháng mười 1956, tất cả đều bị thẳng tay đàn áp.
Chính phủ Việt Nam đã chọn giải pháp hoãn lại cuộc đi thăm của phái đoàn Công giáo Ba Lan. Trong thư khố, tôi không tìm ra thêm hồ sơ nào về sự giao lưu giữa Uỷ ban Công giáo của hai nước. Tuy đang là thời kì Trăm hoa đua nở và áp dụng chính sách tương đối cởi mở đối với Giáo hội Công giáo năm 1957,[53] chính quyền đã quyết định chấm dứt cuộc thử nghiệm giao lưu của người Công giáo. Họ lo ngại truyền nhiễm mầm mống nổi dậy và phản kháng  từ Trung Âu. Vả lại, với tình hình nguy hiểm ở miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1956, đặc biệt ở các vùng Công giáo, khó có thể tính tới chuyện mời một phái đoàn Ba Lan sang thăm.
Thật vậy, tháng 11.1956, một số báo cáo đã nói tới những sự cố xảy ra ở những vùng đông giáo dân. Cuộc nổi dậy được biết đến nhiều nhất xảy ra vào tháng 11.1956 ở Quỳnh Lưu, thuộc tỉnh Nghệ An, quê quán Hồ Chí Minh, có nguy cơ lan truyền sang các vùng chung quanh.  Vì bị phân biệt đối xử trong cải cách ruộng đất, một số giáo dân đã đem bán ruộng đất và súc vật. Theo chính quyền, giáo dân do sức ép của hàng giáo phẩm đã tập hợp đông đảo, nơi 300 người, nơi 500 người, có mặt nhiều thanh niên. Ngày 12 và 13 tháng 11, hàng trăm người Công giáo đã tụ tập đòi quyền di cư vào nam, hô khẩu hiệu “Đả đảo cải cách ruộng đất!”, “Đả đảo Cộng sản, đả đảo Trung Cộng!”, “Đả đảo Nga Sô!”, “Đức Mẹ muôn năm!”. Vẫn theo báo cáo này, đã xảy ra đụng độ với bộ đội, kết quả là mỗi bên có 5 người chết và nhiều người bị thương.[54] Vài ngày sau, Hồ Chí Minh công bố quyết định sửa sai (cuộc sửa sai sẽ kéo dài đến cuối năm 1957) và thừa nhận đã có nhiều sai phạm trong cuộc cải cách ruộng đất.

 

Kết luận

Để kết luận, tôi muốn nhấn mạnh trên hai điểm quan trọng. Điểm thứ nhất là tính đặc thù của chính sách tôn giáo của VNDCCH, nhất là so với Trung Quốc.  Điểm thứ nhì là quan điểm độc đáo của Ba Lan về một giai đoạn then chốt của lịch sử VNDCCH.
Câu hỏi thứ nhất là: trong chừng mực nào người Ba Lan đã ảnh hưởng tới Đảng Lao động Việt Nam trong chính sách tôn giáo và trong chừng mực nào VNDCCH khác chính sách của Trung Quốc đối với Giáo hội Công giáo? Qua hồ sơ lưu trữ của Ba Lan, có thể nói ảnh hưởng của Ba Lan trên sinh hoạt tôn giáo ở miền bắc Việt Nam rất là giới hạn. Thực vậy, cái trọng trách mà chính phủ VNDCCH giao cho phái đoàn Ba Lan là làm sao cho người công giáo miền Bắc thôi không di cư vào Nam nữa. Về điểm này họ đã thất bại. Họ lại không thành công trong việc giúp cho Ủy ban người công giáo yêu nước và yêu hòa bình được thêm uy tín trong giới công giáo và liên lạc được với hàng giáo phẩm một cách ổn thỏa hơn. Sau cùng thì vai trò của họ trong việc lập ra các luật về tôn giáo xem ra có kết quả đáng kể, nhưng ta còn cần tham khảo các bản văn dự thảo còn chứa trong văn khố Việt Nam, mới có thể đánh giá được cho đúng.
Hiển nhiên, việc chính quyền VNDCCH kiểm soát hết sức chặt chẽ sinh hoạt tôn giáo chẳng có gì là độc đáo trong khối các nước cộng sản: kiểm soát các giáo phẩm và linh mục, thành lập Uỷ ban Công giáo Yêu nước, hạn chế việc giảng dạy giáo lí, hạn chế báo chí...
Nhưng về mặt pháp chế, VNDCCH có chính sách tôn giáo riêng của mình. Chính quyền Việt Nam có kinh nghiệm lâu năm trong cuộc chiến tranh chống Pháp giành độc lập. Những quy định pháp luật năm 1955 về quan hệ Giáo hội / Nhà nước tỏ ra khá phóng khoáng so với các nước cộng sản khác. Văn kiện này do người Việt Nam viết ra, trong đó có thể thấy rõ dấu ấn của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng là những người luôn luôn tỏ ra thông hiểu và cởi mở đối với tôn giáo.[55] Trong hoàn cảnh đó dĩ nhiên là ý kiến của của người Ba lan cũng có ảnh hưởng thuận theo một chiều như thế.  Tất nhiên, giữa văn bản và thực tiễn, có cả một khoảng cách !
Như nhà xã hội học Patrick Michel đã chỉ rõ, các nước cộng sản đều có cùng một hệ tư tưởng về tôn giáo nhưng mỗi nước thích nghi nó vào hoàn cảnh riêng của mình. Đồng thời, các giáo hội cũng “ý thức là nhất thiết phải có tầm nhìn dài hạn và chấp nhận sự thoả hiệp tối thiểu trong giai đoạn chuyển tiếp. Ông còn thêm: “Thái độ của chính quyền cũng tuỳ vào suy tính của họ xem Giáo hội có lợi cho họ như thế nào so với những mục tiêu mà Đảng đề ra. Nếu Giáo hội không mang lại lợi ích gì đối với các mục tiêu ấy thì nên thủ tiêu Giáo hội. Ngược lại, thì Giáo hội hoặc là phải chấp nhận hợp tác và như thế sẽ được bảo vệ, hoặc là từ chối hợp tác hoặc hợp tác miễn cưỡng, và sẽ bị đàn áp ”. Theo Michel, quan hệ Giáo hội / Nhà nước ở các nước Đông Âu đã đi theo lô-gic thứ nhì.[56]
>Trong trường hợp VNDCCH, tôi cho rằng các mục tiêu của Đảng cộng sản trong thập niên 50 đòi hỏi phải tranh thủ người Công giáo, ít nhất hai lần: lần thứ nhất là trong cuộc kháng chiến giành độc lập, lần thứ nhì trong giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước 1954-1956. Chính quyền không có ý định đặt Giáo hội ra ngoài vòng pháp luật, nhưng mục tiêu dài hạn là nhằm biến Giáo hội thành công cụ của Nhà nước, tiếp tục chính sách của thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vì Giáo hội Công giáo còn “có ích”, nên chính sách của VNDCCH đối với Công giáo là cởi mở về mặt lí thuyết, như thể hiện trong sắc lệnh tháng sáu 1955.
Vì vậy có thể nói chính sách tôn giáo của VNDCCH gần gũi chính sách của các nước Đông Âu cũ hơn là với Trung Quốc. VNDCCH theo mô hình mác xít Trung Quốc trong việc tổ chức đảng, trong cải cách ruộng đất, nhưng không theo mô hình Trung Quốc trong chính sách tôn giáo. Thật vậy, Trung Quốc là quốc gia duy nhất đã lập ra được một Giáo hội độc lập (với Vatican). Vả lại, như Eric O. Hanson nhận xét, Trung Quốc mênh mông rộng lớn, nên “Giáo hội Công giáo tuyệt đối không có ý nghĩa gì cả trong chính sách nội trị quốc gia của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”.[57] Trong khi đó, Giáo hội Công giáo Việt Nam có một trọng lượng lớn hơn trong lịch sử Việt Nam, cho dù người Cộng sản vẫn luôn luôn coi nó như một công cụ, chứ không coi là một đối tác. Về vấn đề này các đồng chí Ba lan xem ra cũng có chút ảnh hưởng nào đó. 
Cuối cùng, điểm thứ nhì tôi muốn nhấn mạnh là thư khố Ba Lan soi một tia sáng mới vào những năm độc lập đầu tiên của VNDCCH. Trong thời kì 1955-1956, các nhà ngoại giao Ba Lan ở Hà Nội đã cố gắng khách quan và không ngần ngại phê phán các đồng chí Việt Nam của họ. Các bản báo cáo của họ mô tả một cách cân bằng tình hình nội trị miền Bắc Việt Nam. Điều đáng chú ý là họ đã muốn tìm hiểu nguyên nhân tại sao dân chúng miền bắc đã ồ ạt di cư vào nam. Cố nhiên, họ đã nhấn mạnh vào chiến dịch tuyên truyền của Mĩ-Pháp cũng như ảnh hưởng xấu của “hàng giáo phẩm phản động”. Như nguyên nhân kinh tế của cuộc di cư cũng được chú trọng. Họ nhấn mạnh tới tình hình kinh tế nguy ngập của vụ đông-xuân 1955 và trách nhiệm của các đồng chí Việt Nam.
Cũng nên ghi nhận rằng những nhận định có tính chất phê phán nói trên (về chính sách tôn giáo cũng như về chính sách nói chung của VNDCCH) được phát biểu từ đầu năm 1955, tức là một thời gian dài trước Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đó là một bằng chứng về cách nhìn thoáng của các đại diện Ba Lan. Nghiên cứu thư khố Ba Lan về giai đoạn sau đó chắc sẽ giúp chúng ta thêm hiểu biết về lịch sử Việt Nam đương đại, về mặt nội trị cũng như trên bình diện quốc tế.
(bài do Nguyễn Ngọc Giao dịch từ nguyên văn tiếng Pháp)

 

[1] Archiwum Ministerstwa Spraw Zagranicznych (AMSZ), Lưu trữ Bộ Ngoại giao, Vụ V, Zespol 12, Teczka 613, Wiazka 26:  Báo cáo về hoạt động của phái đoàn Công giáo tại Việt Nam từ ngày 13.04 đến ngày 30.05.1955, Hà Nội, mang chữ kí của Wojciech Ketrzynski.
[2] Pax là một hội đoàn tập hợp những linh mục và tín đồ Công giáo Ba Lan tán thành chính sách mới của chế độ Cộng sản Ba Lan, ra đời ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Boleslaw Piasecki (1915-1979), người sáng lập Pax, cho rằng hợp tác với Cộng sản là cách để cải tổ chế độ từ bên trong.
[3] Phần lớn là báo cáo của những đại biểu Ba Lan trong Uỷ hội Quốc tế Giám sát và Kiểm soát (ICSC). Ba Lan được Hội nghị Genève cử vào Uỷ hội. ICSC có nhiệm vụ bảo đảm việc thi hành hiệp định quân sự, đặc biệt là việc tập kết quân đội hai bên ở miền bắc và miền nam vĩ tuyến 17. Nó còn có nhiệm vụ giám sát giải pháp chính trị quy định trong Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị, theo đó một cuộc tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức vào tháng 7.1956 để thống nhất đất nước. Ba thành phần Uỷ hội quốc tế phản ánh tương quan lực lượng quốc tế lúc đó: Ba Lan đại diện cho khối cộng sản, Canada khối tư bản, và Ấn Độ quốc gia “đang trỗi dậy“, lãnh đạo các nước trung lập. Do đó, sự có mặt tại chỗ của người Ba Lan trong Uỷ hội là nguồn thông tin quý báu của đại sứ quán Ba Lan. Tháng ba 1955, phái đoàn Ba Lan có tổng cộng 160 nhân viên. Về ICSC, có thể xem Ramesh Thakur, Peacekeeping and Foreign Policy: Canada, India, and the International Commission in Vietnam 1954-1965, Brit. J International Studies 6 (1980), 125-153, song vì thiếu tư liệu, tác giả ít nói gì về Ba Lan.
[4] Song song với chính sách đoàn kết dân tộc này, VM không ngần ngại áp dụng những phương pháp triệt để đập tan những đảng phái quốc gia đối thủ. Xem bài của François Guillemot, "Au coeur de la fracture vietnamienne: l’élimination de l’opposition nationaliste et anti-colonialiste dans le Nord-Vietnam (1945-1946)" (Trung tâm điểm của sự chia rẽ giữa người Việt Nam: việc tiêu diệt phe đối lập quốc gia chủ nghĩa và chống thực dân ở Bắc-Việt (1945-1946), trong The birth of a Party-State, Vietnam since 1945, do Benoît de Treglodé và Christopher Goscha chủ biên, Paris, Les Indes Savantes, 2004, tr. 175-216.
[5] Về quan hệ giữa những nhân vật Công giáo và những nhà lãnh đạo Việt Minh, xem Trần Thị Liên, “ Les catholiques vietnamiens et la RDVN (1945-1954): une approche biographique ” (Người Công giáo Việt Nam và VNDCCH (1945-1954): tiếp cận qua những tiểu sử nhân vật) trong The birth of a Party-State, Vietnam since 1945, do Benoît de Treglodé và Christopher Goscha chủ biên, Paris, Les Indes Savantes, 2004, tr. 253-276.
[6] ASHAT INDO 10 H 4191: Chỉ thị cấm xung công nơi thờ cúng vì mục đích chiến tranh, Nguyễn Bình, số 413/TS, 14/7/1947.
[7] ASHAT INDO 10 H 4191: SDECE BR n° 15699/8, 9/9/1949, truyền đơn mang chữ kí của Ung Văn Khiêm, uỷ viên Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách nội vụ.
[8] Bulletin de la Société des MEP, 4/1949, n°10, Đoàn thừa sai Bắc Kì, G. LEBOURDAIS, 14/2/1949, tr. 208-209.
[9] Theo cùng một đạo với thực dân, người Công giáo bị coi là nguyên nhân của cuộc xâm lược. Song đạo Ki tô không vào Việt Nam cùng một lúc với quân đội Pháp, mà từ thế kỉ XVI với những giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha. Từ thế kỉ XVII trở đi, Ki tô giáo lan truyền ở Việt Nam nhờ hoạt động của giáo sĩ Dòng Tên của thành phố Avignon, Alexandre de Rhodes, và của những linh mục dòng Đa Minh người Tây Ban Nha. Trước sự thù nghịch của chính quyền quân chủ Việt Nam đối với một tôn giáo ngoại lai, Vatican cố gắng làm thế nào để Giáo hội không bị đồng hoá với hai thế lực thực dân lớn của thời đó (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha). Theo đề nghị của Dòng Tên, Vatican trao cho Dòng Thừa sai Paris (một dòng tu Pháp) nhiệm vụ truyền giáo ở Việt Nam. Nhưng một thế kỉ sau, chính các giáo sĩ Thừa sai đã cầu cứu quân đội Pháp để chấm dứt việc đàn áp Công giáo. Vì vậy mà người Công giáo Việt Nam bị mang tiếng. Về vấn đề này, xin xem bài phát biểu của tôi tại cuộc họp Réseau Asie tại Paris, 25-26/9/2003: "De la notion loyauté/déloyauté à la notion d’engagement politique: les catholiques vietnamiens en période coloniale" (Từ khái niệm trung/bất trung đến khái niệm dấn thân chính trị: người Công giáo Việt Nam dưới thời thực dân).
[10] Phải nói thêm rằng người Công giáo không họp thành một khối "nhất phiến". Năm 1945, họ tham gia nhiều đảng phái chính trị khác nhau, từ quốc gia đến Cộng sản. Năm 1949, có 3 xu hướng: xu hướng chủ đạo tập hợp chung quanh Ngô Đình Diệm và các giám mục miền bắc, một nhóm thiểu số ủng hộ Bảo Đại, và một thiểu số ủng hộ Việt Nam (đặc biệt ở miền nam). Về vấn để này, xem luận án của tôi: Trần Thị Liên, Les catholiques vietnamiens pednant la guerre d’indépendance (1945-1954). Entre la reconquête coloniale et la résistance communiste, luận án tiến sĩ sử học, Viện khoa học chính trị Paris, 1997, 1177 trang.
[11] Xem Ralph B. Smith, An International History of the Vietnam War, Vol 1 Revolution versus Containment, 1955-1961, Macmillan Press, London, 1983, tr 55-69: Hanoi and Reunification.
[12] ASHAT Fonds Gambiez, 1 K 540 Carton 16, Báo cáo về tình hình người tị nạn ở Bắc Việt của Giám mục Phạm Ngọc Chi, cai quản địa phận Bùi Chu, phụ trách về ngươì di cư Bắc Việt, tháng mười 1955, gửi Bộ truyền giáo Roma, 14 trang. Trong tổng số 860 206 người di cư vào nam, 676 348 là giáo dân.
[13] Cộng hoà Nhân dân Ba Lan đã thừa nhận VNDCCH từ năm 1950, như phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng mãi sau Hiệp định Genève, Ba Lan mới gửi đại sứ đầu tiên sang Việt Nam. AMSZ, Departament V, Z11, T675, W47, Bangkok ; 30/1/1950, N° PV/511-NG, Đại diện Việt Nam tại Thái Lan Nguyễn Đức Quỳ gửi Bộ ngoại giao CHND Ba Lan – Thư của Hoàng Minh Giám, 23/1/1950.
[14] AMSZ, Departament V, Z12, T612, W26, AH 36 14 W55, Báo cáo của R. Cielewicz, thuyền trưởng tầu Jan Kilinski, 7/4/55. Xem thêm Miroslaw Jurdzinski, Transport zolnierzy Wietcongu na statku ss „Kilinski” w latach 1954-1955 (Chuyên chở bộ đội Việt Cộng trên tàu Kilinski 1954-1955), Nautologia 2001 n°1-2 (136), tr.18-21. Tổng cộng, chiếc tàu Ba Lan đã chở khoảng 85 000 người, 3 500 tấn thiết bị quân sự và 250 tấn đạn dược.
[15] AMSZ, Departament V, Z12, T608, W25: AH/242/1/W/55 Hanoi, 14/5/1955, Đại sứ Pietka: Báo cáo chính trị từ 20/12/1954 đến 10/1/1955.
[16] Phái viên trong phái đoàn Ba Lan đi thăm Việt Nam tháng tư-năm 1955 cũng nhận định tương tự: “ Cuộc sống vật chất, và trước hết là tình hình lương thực nguy kịch là một trong những nguyên nhân của cuộc di cư (cho dù tuyên truyền rất hiệu quả của Mĩ-Pháp là nguyên nhân quan trọng nhất) ”. AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của Đoàn đại biểu Công giáo Ba Lan đi thăm Việt Nam (từ 13 đến 19/4/1955), Hà Nội, 19/4/1955, mang chữ kí của P. J. Keller, P. Suwala và W. Ketrzynski.
[17] AMSZ, Departament V, Z12, T608, W25: Đại sứ Pietka, Hà Nội, 10/4/1955 Báo cáo tháng ba: “ Một trong những khó khăn lớn nhất mà các đồng chí của chúng ta gặp phải, là nguy cơ xảy ra nạn đói (...) Hiện nay, viện trợ của CHNDTH đã tới nơi, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu. Vụ mùa tháng năm không khả quan vì hạn hán kéo dài ”.
[18] AMSZ, Departament V, Z12, T606, W25, Tel n°101050, Hà Nội, 20/4/1955, kí tên Ogrodzinski.
[19] AMSZ, Departament V, Z12, T608, W25 Đại sứ Pietka, Hà Nội, 2/5/1955, Báo cáo tình hình tháng tư: “Cuối tháng tư tình hình được cải thiện một chút nhờ gạo, gà và khoai lang gửi từ Trung Quốc đã sang tới nơi ”.
[20] AMSZ, Departament V, Z12, T1235, W63: Đại sứ Jerzy Grudzinski, New Delhi, 27/4/1955, Báo cáo số 243/10/55 gửi Bộ ngoại giao Warsaw. Ngoài ra, đại sứ Ba Lan còn báo cáo yêu cầu của một số giáo dân đã di cư vào nam “ thất vọng vì không được cấp phát ruộng đất và trầu cày như chính quyền Bảo Đại đã hứa hẹn, yêu cầu được trở lại miền bắc ”.
[21] ASHAT Fonds Gambiez, 1 K 540 Carton 16, Báo cáo không kí tên, Hải Phòng, 25/2/1955: Người di cư ở Bắc Việt, tr. 5. Báo nói tới một cuộc xô xát có đổ máu, trong đó số giáo dân bị chết hoặc bị thương có thể lên tới 50 người.
[22] AMSZ, Departament V, Z12, T608, W25, AH/242/4/W/55 Đại sứ Pietka, Báo cáo chính trị.
[23] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của Phái đoàn Công giáo Ba Lan ở Việt Nam, từ ngày 13 tháng tư đến ngày 30 tháng năm 1955, Hà Nội, kí tên Wojciech Ketrzynski: “ Cần phải li gián người Công giáo với miền Nam, giữ họ trong phe dân chủ, điều này rất quan trọng đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước ”.
[24] Về Hiệp định Genève và bối cảnh quốc tế của việc chia cắt Việt Nam, xem Ralph B. Smith, An International History of the Vietnam War, Vol. I, Revolution versus Containment, 1955-1961, Macmillan Press, London, 1983, tr. 19-33: The Geneva Partition.
[25] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của Phái đoàn Công giáo Ba Lan tại Việt Nam (từ 13 đến 19/4/1955), Hà Nội, 19/4/1955, kí tên P. J. Keller, P. Suwala và W. Ketrzynski.
[26] như trên.
[27] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của phái đoàn Công giáo Ba Lan ở Việt Nam từ ngỳa 13.4 đến 30.5.1955, Hà Nội, kí tên Wojciech Ketrzynski.
[28] Xem phần dưới.
[29] Pierre Gheddo, Catholiques et bouddhistes au Vietnam, Paris, Alsatia, 1970, tr. 108. Hồ Chí Minh đã lên tiếng về vấn đề này vào tháng bảy, tháng mười rồi tháng chạp 1954. Nhân dịp lễ Giáng sinh, ông gửi thư cho người Công giáo, cam kết bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và hứa huỷ bỏ lệnh thiết quân luật trong để giáo dân có thể dự lễ thánh nửa đêm.
[30] Trong bản báo cáo đầu tiên, đại sứ Ba Lan viết chính ông đã gợi ý với các quan chức Việt Nam khi họ yêu cầu Ba Lan giúp đỡ, là nên "thành lập một hội những người Công giáo Yêu nước nhằm kích thích long yêu nước trong giới linh mục Việt Nam". AMSZ, Departament V, Z12, T608, W25, Hà Nội, 14/1/1955, Đại sứ Pietka: Báo cáo chính trị từ 20/12/1954 đến 10/1/1955.
[31] AMSZ, Departament V, Z12, T608, W25, Hà Nội, 10/4/1955, Đại sứ Pietka, Báo cáo chính trị tháng ba.
[32] Ban thường vụ gồm 8 linh mục và 21 cư sĩ. Uỷ ban ra tờ báo Chính Nghĩa.
[33] Stephen Denney, "The Catholic Church in Vietnam" trong Pedro Ramet, Catholicism and Politics in Communist Societies, Duke University Press, London, 1990, tr. 273.
[34] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của phái đoàn Công giáo Ba Lan ở Việt Nam (từ 13 đến 19/4/1955), Hà Nội, 19/4/1955, kí tên LM J. Keller, LM Suwala và W. Ketrzynski.
[35] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của phái đoàn Công giáo ở Việt Nam từ ngày 13.4 đến ngày 30.5.1955, Hà Nội, kí tên Wojciech Ketrzynski.
[36] Xem những trang sau.
[37] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của phái đoàn Công giáo ở Việt Nam từ ngày 13.4 đến ngày 30.5.1955, Hà Nội, kí tên Wojciech Ketrzynski. Về giám mục Vinh: "Đây là một linh mục tuổi khá cao, với quá khứ chính trị rất phản động. Ngày nay ông tỏ ra biết điều và thận trọng (...) Ông đã tuyên bố dứt khoát là sẽ ở lại cai quản giám phận, và khẳng định là ông chống lại việc di cư", đặc biệt là nói với với các chủng sinh Đại chủng viện Vinh, là chủng viện duy nhất còn mở cửa.
[38] Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Hà và linh mục Phạm Hân Quynh (Ivry, ngày 15/5/1989).
[39] Vào thời chế độ bảo hộ, thì năm 1945 ông Hà còn làm thanh tra lao động ở Hải phòng. Người công giáo biết ông là người sáng lập ra phong trào Thanh niên Lao động Công giáo (Jeunesse Ouvrière Chrétienne) tại Hải Phòng. Trước đó vào những năm 20 và 30, khi còn là sinh viên, ông đã tham gia vào phong trào Công giáo Tiến hành bên Pháp, cho nên khi tốt nghiệp trường Luật, ông về Việt Nam năm 1937, thì rất chú trọng đến vấn đề xã hội. Ong tìm cách truyền bá học thuyết xã hộ của Giáo hội trong giới công giáo, đồng thời hoạt đông để cho công giáo có mặt trong giới thợ thuyền ở Hải phòng là thành phố hải cảng (Xem: "Nguyen Manh Ha: A voice for neutral solution in South Vietnam (1954-1957)", AAS Annual Meeting, Chicago, March 2001, chưa in)
[40] Có nhiều lý do giải thích vì sao ban lãnh đạo cộng sản đã lựa chọn như thế. Vì muốn kéo người công giáo đi theo, cho nên họ chọn một nhân vật công giáo cấp tiến. Lại vì muốn đi đến độc lập bằng phương pháp ưu tiên là điều đình với chính quyền Pháp, cho nên họ nhận ra ông Hà là người có thể giúp họ tiếp xúc với chính phủ Pháp do thủ tướng Georges Bidault lãnh đạo, mà ông này lại là một người dân chủ công giáo, chủ tịch đảng Cộng hòa Nhân dân (Mouvement Républicain Populaire). Năm 1946, ông Hà được cử đi dự hội nghị Fontainebleau, vai trò của ông là móc nối, vì một đàng thì ông có nhiều liên lạc với giới công giáo, một đàng thì vì bà Nguyễn Mạnh Hà là người Pháp, là con gái ông Georges Marrane, là một nhân vật quan trọng trong đảng Cộng sản Pháp: ông là nghị sĩ và làm bộ trưởng bộ Y tế năm 1946 ( Xem: Trần thị Liên, "Les catholiques vietnamiens et la République démocratique du Vietnam (1945-1954): une approche biographique", Naissance d’un parti-Etat, le Vietnam depuis 1945, dir. Par Benoit Treglodé et Chirstopher Goscha, Paris, Les Indes Savantes, 2004, p. 258-260).
[41] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của Phái đoàn Công giáo ở Việt Nam (từ ngày 13 đến ngày 19/4/1955), Hà Nội, 19/4/1955, kí tên Cha J. Keller, Cha Suwala và W. Ketrzynski.
[42] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của phái đoàn Công giáo ở Việt Nam từ ngày 13.4 đến ngày 30.5.1955, Hà Nội, kí tên Wojciech Ketrzynski.
[43] AMSZ, Departament V, Z12, T608, W25: AH/242/7/W/55 Hà Nội, 15/8/1955, Đại sứ Tomasz Pietka, Báo cáo chính trị tháng ba.
Xem Les Catholiques en République Démocratique du Viet Nam, Editions en Langues Etrangères, Hanoi, 1963, tr 19 và 32.
[44] Pierre Gheddo, Catholiques et Bouddhistes au Vietnam, Paris, Alsatia, 1970, tr. 108-112.
[45] Hiến pháp năm 1936 của Liên Xô, điều 124: "Nhằm bảo đảm cho công dân quyền tự do tín ngưỡng, Giáo hội ở Liên Xô tách biệt khỏi Nhà nước, trường học tách biệt khỏi Giáo hội. Mọi công dân đều có quyền tự do thờ cúng theo tín ngưỡng và có quyền tuyên truyền chống tôn giáo" trong Cécile Vaisse, Le prix de la survie. Les relations entre l’Eglise russe orthodoxe et le pouvoir politique depuis 1917, luận văn cao học Nghiên cứu về Liên Xô và Đông Âu, IEP, Paris, 1993, tr.121.
[46] Patrick Michel, La Société retrouvée. Politique et religion dans l’Europe soviétisée, Paris, Fayard, 1988, tr. 38.
[47] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Wojciech Ketrzynski, Warszawa, 13/12/1955 Báo cáo.
[48] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Wojciech Ketrzynski, Warszawa, 13/12/1955 Báo cáo.
[49] AMSZ, Departament V, Z12, T617, W26 DV Indoch 086/13/56, Ghi lại cuộc gặp Bí thư Đại sứ quán VNDCCH tại Warszawa, đồng chí Hoàng Lương, ngày 26/7/1956.
[50] AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26 DV Indoch 086/24/56, Ghi lại cuộc gặp Bí thư Đại sứ quán VNDCCH tại Warszawa, đồng chí Hoàng Lương, ngày 24/9/1956.
[51] AMSZ, Departament V, Z12, T617, W26 DV Indoch 086/25/56, Ghi lại cuộc gặp Bí thư Đại sứ quán VNDCCH tại Warszawa, đồng chí Hoàng Lương, ngày 22/11/1956.
[52] Georges Chaffard, Indochine, dix ans d’indépendance, Calman-Lévy, Paris, 1964, tr. 138-140.
[53] Về việc nới rộng chính sách trong thời kì Trăm hoa đua nở, xem Pierre Gheddo, Catholiques et Bouddhistes au Vietnam, Paris, Alsatia, 1970, tr. 121-122.
[54] AMSZ, Departament V, Z12, T619, W26 tình hình nội trị -- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương về Cải cách ruộng đất 1956: báo cáo 14/242/57, Florian Ratajczak, Hà Nội, 10/12/1956. Bản ghi về hội nghị Trung ương ngày 30/11/1956, do Bộ ngoại giao VNDCCH tổ chức.
[55] Ông Nguyễn Mạnh Hà, người Công giáo, sau thời gian cộng tác với họ trong năm 1945, vẫn giữ một ấn tượng sâu sắc về sự cởi mở của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng trong vấn đề tôn giáo. Vì vậy mà năm 1955, ông đã đồng ý trở về Hà Nội để tìm cách cải thiện quan hệ Giáo hội / Nhà nước.
[56] Patrick Michel, La Société retrouvée. Politique et religion dans l’Europe soviétisée, Paris, Fayard, 1988, tr. 37-39.
[57] Eric O Hanson, The Catholic Church in China, trong Pedro Ramet, Catholicism and Politics in Communist Societies, Duke University Press, London, 1990, tr. 256-257.