2016/04/02

NGÀY XƯA...

Yêu



Ngày xưa như sắt như đồng
Như đinh đóng cột, như rồng phun mưa
Bây giờ như cải muối dưa
Ba thang Minh Mạng vẫn chưa ngóc đầu 

Trải qua một cuộc bể dâu
Tháng ngày oanh liệt còn đâu nữa mà
Ngày xưa sung ống sáng lòa
Bây giờ dưa chuột héo và mốc meo

Ngày xưa sung sức thì nghèo
Bây giờ rủng rỉnh tóp teo mất rồi
Ngày xưa lớn khỏe hơn chồi
Bây giờ nó có đàn hồi nữa đâu

Ngày xưa hùng hục như trâu
Bây giờ èo uột như tầu lá khoai
Ngày xua khám phá miệt mài
Bây giờ nửa cuộc - mệt nhoài đứt hơi

Ngày xưa chiến tích để đời
Bây giờ chiến bại nhớ thời… ngày xưa
Ngày xưa… bất kể sớm trưa
Bây giờ thỉnh thoảng lưa thưa… gọi là

Ngày xưa đầu tóc mượt mà
Bây giờ nhẵn thín như là dưới mông
Bây giờ sống cũng bằng không
Bây giờ hết kiếp làm chồng người ta
Bây giờ ôm hận đếngià!
Cho dù béo tốt cũng là cơm toi
Bây giờ pháo đã tịt ngòi
Gia tài còn lại một vòi nước trong

Ngày xưa vợ đợi , bồ mong
Bây giờ vợ nguýt, bồ cong cớn lườm
Ngày xưa mặt mũi tinh tươm
Bây giờ nhầu nhĩ - ớt tương trộn mì

Ngày xưa lên ngựa là phi
Bây giờ bước một ngựa đi…tà tà
Ấy là nói chuyện ở nhà
Chứ sang hàng xóm, vẫn là ngày xưa

Nguồn: Chôm trên mạng

2016/04/01

Vụ Đánh Bom Ở Pakistan Giáo Hoàng Francis Không Còn Tin Chúa Quan Phòng

D Đức Chú

From: "DucChu"
Sent: Tuesday, March 29, 2016 4:03 PM
Subject: GH Francis Francis Không Còn Tin Chúa Quan Phòng

Từ khi có Cách Mạng Hoa Lài ở Trung Đông năm 2011, các Ki-tô hữu đã bị người Hồi Giáo chú ý khá nhiều. Điều dễ hiểu là các thành phần Ki-tô giáo ở nhiều nơi trên thế giới luôn luôn bị Âu Mỹ giật giây chống đối chính quyền khi mà những chính quyền này không thuộc về họ. 

Khi đang "gieo gió," âm thầm làm những việc đó, Giáo Hội thường có những bài giảng, nói bóng nói gió, khuyến khích các con chiên "đừng sợ", đã có Chúa ở cùng bên (xin đọc Về Việc Bách Hại Người Ki-Tô Giáo Ở Trung Đông http://sachhiem.net/NMQ/NMQ56.php.) 

Nhưng khi "gặt bão", bị người ta trả thù, thì Ngài "sợ quá", không biết Chúa ở bên nào, Ngài cầu tứ phương. Vậy Ngài cũng chẳng còn dám tin Chúa "toàn năng" hay "quan phòng" gì cả. 

Mới trước đây chừng mấy tháng,  Ngài còn mạnh miệng khích tướng các nước rằng "thế giới sẽ không ngồi yên," nghĩa là gián tiếp ... kêu gọi "thánh chiến". 

Nay thì số con chiên Âu Mỹ không còn đủ cho Ngài kêu gọi làm cơm cháo gì được. Chẳng lẽ Ngài chạy sang Phi Châu, hay các nước Á Châu mới dụ theo đạo, để lập đạo binh Thánh Giá đi đánh khắp nơi? Ngài không dám "kêu gọi thế giới" nữa, mà chỉ năn nỉ chính quyền sở tại "làm ơn chịu trách nhiệm bảo vệ con chiên thiểu số dùm." Thế có phải hơn những bài nhồi sọ trước đây: "cầu nguyện" và "đừng sợ" hay không?

Câu chuyện thời sự sau đây mới xảy ra vài hôm cho thấy Ngài đã gần như tuyệt vọng, "đi vào đường cùng", một cụm từ mà con chiên Lữ Giang thường xử dụng cho người khác, nhắm vào các Phật tử chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. 

Ngài gọi vụ đánh bom "ghê tởm và vô nghĩa". Đúng vậy, mọi bạo động đều ghê tởm. Nhưng Ngài quên lịch sử bao động của Giáo Hội Ngài. Thánh chiến có ghê tởm không? Có lẽ Ngài cho rằng "thánh chiến có ý nghĩa hơn" chăng?

Không đâu, thưa Ngài. Thà rằng Ngài tổ chức thi đua "cầu Chúa" với bọn ISIS, xem Chúa ở bên nào. Một buổi cầu như thế mới thực sự biểu dương niềm tin vào Đấng Tối Cao của Ngài một cách chân chất nhất.
D Đức Chú


_____________________________

Giáo hoàng Francis kêu gọi chính phủ Pakistan bảo vệ các Kitô hữu
Ki-tô giáo ở Parkistan bị bách hại 

Giáo Hoàng Phanxicô tố giác vụ đánh bom "ghê tởm và vô nghĩa" tại một công viên ở Pakistan nhằm mục tiêu gia đình Kitô hữu cử hành lễ Phục sinh và nhấn mạnh phải bảo vệ cho tôn giáo thiểu số ở các quốc gia phần lớn là người Hồi giáo.

"Chúa Nhật Phục Sinh đã dính đầy máu của một cuộc tấn công ghê tởm mà tàn sát rất nhiều người vô tội, cho các gia đình nhất là một phần của thiểu số Kitô giáo, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, tập trung tại một công viên công cộng để vui vẻ nghỉ lễ Phục sinh", Francis nói với các tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô vào Thứ Hai Phục Sinh.

Jamaat-ul-Ahrar, một phe phái của Taliban ly khai hỗ trợ ISIS, nhận trách nhiệm và cho biết nó đặc biệt nhắm mục tiêu các Kitô hữu.

Nhưng hầu hết những người thiệt mạng là người Hồi giáo cũng đã có mặt tại công viên để nghỉ lễ. Nhiều phụ nữ và trẻ em nằm trong số các nạn nhân, và hàng chục gia đình đã tổ chức đám tang đầy nước mắt vào thứ hai cho người thân bị giết họ. Ít nhất 300 người bị thương.

Giáo hoàng Francis kêu gọi chính phủ Pakistan thực hiện những bước để đảm bảo sự an toàn của các Kitô hữu và dân tộc thiểu số khác trong nước.

Ông kêu gọi "các quyền dân sự và tất cả các nhà lãnh đạo cộng đồng trong quốc gia đó để làm mọi thứ có thể để đảm bảo sự an toàn và thanh thản của người dân, đặc biệt là các tôn giáo thiểu số dễ bị tổn thương nhất."

Giáo hoàng Phanxicô đã nhiều lần nói về sự đau khổ của các Kitô hữu tại Trung Đông, châu Phi và châu Á là mục tiêu của những kẻ cực đoan Hồi giáo. Tuần trước, trong một dịch vụ Thứ Sáu Tuần Thánh, ông chỉ trích cái mà ông gọi là "im lặng hèn nhát" đối với cuộc đàn áp và giết hại các Kitô hữu.
_______________
Bài đọc thêm:
- Về Việc Bách Hại Người Ki-Tô Giáo Ở Trung Đông của Nguyễn Mạnh Quang http://sachhiem.net/NMQ/NMQ56.php.

Khía Cạnh Triết Học Của Cuộc Ném Bom Dinh Độc Lập 1962 Trong Quan Hệ Với Pháp Nạn 1963

Minh Thạnh


 (Bài viết có giá trị lịch sử cho thế hệ trẻ muốn thỏa mãn thắc mắc xưa nay thường hỏi tại sao Dinh Độc Lập lại bị máy bay thả bom của Quân Đội tấn công năm 1962 dưới triều đại T.T Ngô Đình Diệm) 

Cuộc ném bom Dinh Độc lập năm 1962 của 2 phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc đã được đề cập nhiều dưới các khía cạnh quân sự, chính trị, sử học, nghệ thuật, đã là một sự kiện làm tốn khá nhiều giấy mực, nhất là ở khía cạnh chính trị. 

Về mặt quân sự, đây được coi là một cuộc ném bom rất chính xác trong hoạt động cường kích không quân, với kỹ năng nghiệp vụ cao, bất ngờ, táo bạo, áp đảo.

Về mặt sử học, người ta đã từng tranh luận xem đây là một cuộc ám sát hay đảo chính. Một số sử gia xem đây là một cuộc đảo chính dù mục tiêu giết chết Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng rất rõ ràng.

Hai máy bay cường kích đã làm chủ không phận Sài Gòn nửa giờ và liên tục tấn công xuống Dinh, trực diện với pháo phòng không bắn lại từ nhiều điểm, không phải là một cuộc ra tay ám sát ngắn ngủi.

Wikipedia tiếng Anh cũng cho rằng “Cử và Quốc hy vọng cuộc không kích sẽ cho thấy những lỗ hổng của chính quyền Diệm và kích hoạt một cuộc tổng nổi dậy” (Cử and Quốc hoped that the airstrike would expose Diệm's vulnerability and trigger a general uprising).

Chiến đấu cơ Skyraiders của Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử sà xuống sông Sài Gòn để chuẩn bị cho phi vụ ném bom Dinh Độc Lập của Tổng thống Diệm

Về nghệ thuật, có thể kể đến bài hát của Phạm Duy “Huyền sử ca một người mang tên Quốc” (các bản ghi âm của bài hát này hiện nay, vì lý do rõ ràng là bênh vực cho chế độ Diệm, đã bỏ đi lời ca ngợi Phạm Phú Quốc “bay lên đập vỡ bạo quyền”, hạ thấp người phi công này xuống chỉ là như một người tử trận trong chiến tranh).

Về mặt tôn giáo, có lời đồn đại hòa thượng Thích Tâm Châu là người cùng vạch kế hoạch cuộc ném bom với ông Nguyễn Văn Lực, một nhà lãnh đạo Việt Nam Quốc dân đảng, cha phi công Nguyễn Văn Cử, vì hòa thượng Thích Tâm Châu là bạn của ông Nguyễn Văn Lực. Lời đồn đại này xuất hiện sau tháng 11/1963, tức sau cuộc đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo của Phật giáo.

Đây là một đồn đoán huyễn hoặc, không có cơ sở, vì chỉ từ quan hệ bạn bè mà suy diễn. Và vào năm 1962, mâu thuẫn giữa Phật giáo và chính quyền Ngô Đình Diệm chưa phải đã lên cao như trong năm sau đó. Hiện nay, lời đồn đoán đó đã đi vào quên lãng. Các tài liệu sử học đáng tin cậy chỉ nói đến vai trò của ông Nguyễn Văn Lực trong cuộc đảo chính quân sự này.

Trong các tài liệu sử học mà tôi đọc được, đều không thấy đề cập đến mối liên hệ nào giữa cuộc ném bom Dinh Độc Lập năm 1926 của hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc với pháp nạn Phật giáo 1963, dù một vài tài liệu có nói ông Phạm Phú Quốc là Phật tử (pháp danh Như Hưng). Bài viết này sẽ bước đầu tìm hiểu mối liên hệ giữa 2 sự kiện đó, từ khía cạnh triết học.

Tuy nhiên, cần xác định rõ không phải là Phật giáo miền Nam có liên hệ gì với cuộc không kích Dinh Độc Lập năm 1962, mà là chỉ ra những tác động của cuộc ném bom này về mặt triết học đối với tổng thống Ngô Đình Diệm trong hành động đàn áp Phật giáo. Chính vì vậy, nên đây là một câu chuyện có liên hệ đến Phật giáo và do đó trở thành đối tượng tìm hiểu của bài viết này.

Cuộc không kích Dinh Độc Lập năm 1962

Như đã nói, đây là một cuộc đảo chính, với lực lượng quân sự được sử dụng là không quân, tấn công vào nơi cư trú của gia đình Ngô Đình Diệm, là đầu não của chế độ này.

Cuộc đảo chính trước hết là vấn đề của mâu thuẫn giữa chế độ Ngô Đình Diệm và Việt Nam Quốc Dân Đảng, không có liên hệ gì đến Phật giáo. Khẳng định lại một lần nữa như thế để xóa tan lời đồn đại sự dính líu của Phật giáo miền Nam vào cuộc đảo chính này.

Lập kế hoạch cho cuộc đảo chính là ông Nguyễn Văn Lực, một người lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng, chống chế độ Ngô Đình Diệm, đã từng bị tù tội. Theo kế hoạch, con trai ông Lực, trung úy Nguyễn Văn Cử, phi công lái máy bay cường kích Skyraider A1 cùng với một đồng đội, trung úy Phạm Phú Quốc, sinh năm 1935, lái phi cơ cùng loại thứ 2 tấn công Dinh Độc Lập.

Dinh Độc Lập đang bị oanh kích sáng ngày 27-2-1962
Dinh Độc Lập đang bị oanh kích sáng ngày 27-2-1962 (Ảnh: vnafmamn.com)

Bảy giờ sáng ngày 27/2/1962, cuộc tấn công đã diễn ra, khi 2 phi công nói trên điều khiển 2 máy bay cường kích quay về Sài Gòn trong một phi vụ ở đồng bằng sông Cửu Long và tấn công Dinh Độc Lập. Bom, rocket không điều khiển, đạn pháo đã được sử dụng, đánh chính xác vào cánh phía tây Dinh Độc Lập, nơi gia đình Ngô Đình Diệm cư trú, phá sập phần lớn cánh phía Tây của dinh thự này.

Hai máy bay đã không kích chỉ đánh vào mục tiêu một căn phòng trong Dinh Độc Lập và chịu đựng trong 30 phút đạn phòng không từ dưới đất bắn lên. Máy bay của Phạm Phú Quốc trúng đạn, bị rơi xuống sông Sài Gòn và phi công bị bắt giữ. Máy bay của Nguyễn Văn Cử bị đạn làm hư hại, hạ cánh khẩn cấp xuống Phnom Penh, phi công tị nạn chính trị.

Có cả máy bay cất cánh để không chiến, nhưng gặp trở ngại vì hỏa lực phòng không dưới đất không phân biệt được với máy bay tấn công Dinh Độc Lập.

Ngoại trừ bà Ngô Đình Nhu bị xây xát nhẹ ở tay, ông Ngô Đình Diệm và những người còn lại trong gia đình không hề hấn gì.

Bom, rocket không điều khiển, đạn pháo đã được sử dụng, đánh chính xác vào cánh phía tây Dinh Độc Lập, nơi gia đình Ngô Đình Diệm cư trú, phá sập phần lớn cánh phía Tây của dinh thự này. (Ảnh: LIFE Magazine)

Vấn đề triết học phát sinh từ cuộc không kích

Chính việc gia đình và cá nhân ông Ngô Đình Diệm không hề hấn gì đã tạo nên những tác động về mặt triết học. Tác động này diễn ra trên chính ông Diệm, gia đình, tức bộ máy cầm quyền, trung ương và các quan chức thân cận với gia đình này, gồm cả những binh lính, viên chức chính quyền cấp dưới của chế độ Ngô Đình Diệm.

Số đông người này đã chịu ảnh hưởng từ một chiến dịch truyền thông cho chế độ Ngô Đình Diệm phát động, mang màu sắc triết học.

Các phi công đảo chính đã thực hiện xuất sắc cuộc ném bom. Họ xác định đúng căn phòng Ngô Đình Diệm ở và thời điểm ông ta có mặt trong phòng. Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc nghĩ rằng cuộc ném bom đã đạt mục tiêu khi nhìn thấy khu vực được xác định của Dinh bị đánh sập hoàn toàn, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược (1).

 
Trái: Trung úy Phạm Phú  Quốc. Trung úy Nguyễn Văn Cử sau khi
hạ cánh khẩn cấp xuống Cambodia (Ảnh: vnafmamn.com)

Quả bom 230 kg đầu tiên đã ném trúng căn phòng ông Diệm đang ngồi đọc sách trong đó. Trái bom không nổ! Sau đó, Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, vợ chồng ông Ngô Đình Nhu và các con nghe tiếng máy bay rít ngang kịp thời biết có cuộc không kích, đã trốn xuống tầng hầm ở cánh phía đông của Dinh.

Trong khi đó, bom và đạn pháo phá sập một phần cánh phía tây của Dinh.

Để hiểu được vấn đề triết học nảy sinh từ đây, chúng ta điểm qua về niềm tin tôn giáo và tư duy triết học của Ngô Đình Diệm và gia đình.

Ông Diệm theo đạo Ca tô La Mã một cách cực đoan, đồng thời, chịu ảnh hưởng nặng nề từ Nho giáo. Ông ta tin vào “mệnh trời” trong sự nghiệp chính trị của mình. Toàn bộ gia đình Ngô Đình Diệm là những người ngoan đạo, cùng niềm tin như thế.

Niềm tin tôn giáo này có quan hệ chặt chẽ với hệ tư tưởng triết học của chính quyền Ngô Đình Diệm là triết học nhân vị. Triết học nhân vị của chính quyền Ngô Đình Diệm do Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị khai sinh, lấy từ triết học nhân vị Pháp, của một nhóm trí thức cấp tiến, đứng đầu là E. Mounier (1905 - 1950).

Sách “Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam”, Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, nhà xuất bản Hà Nội, 2001, đã viết như sau “Nhằm tạo ra một thứ triết học phục vụ lợi ích chính trị, Ngô Đình Nhu đã du nhập chủ nghĩa nhân vị của các nhà triết học Pháp để nhào nặn, tỉa rút, biến lý thuyết triết học này thành chỗ dựa để chống cộng sản” (trang 570).

Còn sách “Lịch sử triết học”, Bùi Thanh Quất, Vũ Tình (đồng chủ biên), nhà xuất bản Giáo dục, 2001, nhận định triết học nhân vị ở miền Nam “gắn liền thần học với chủ nghĩa duy linh”. Chủ nghĩa duy linh ở đây là chủ nghĩa tôn thờ thượng đế, đấng thiêng liêng tạo ra vũ trụ, vạn vật con người. Tất nhiên, đó là chúa trời đạo Ca tô La Mã, trong bối cảnh cầm quyền của Ngô Đình Diệm.

Trong sách “Ảnh hưởng của triết học phương tây hiện đại ở Việt Nam”, Lê Thị Tuyết, Dương Quốc Quân đồng tác giả, nhà xuất bản Chính trị Hành chính, 2013, các tác giả viết: “Chủ nghĩa nhân vị được chính quyền Ngô Đình Diệm sử dụng như một công cụ chống cộng sản, nó hoàn toàn tương ứng với giáo lý của Công giáo. Đó vẫn chỉ như một giáo hội công giáo trung cổ, trung thành nghiêm ngặt với những giáo điều của cộng đồng Trent (1545-1563). Công giáo miền Nam Việt Nam muốn kiên trì những kỷ cương, đảm bảo tính liên tục của giáo lý, từ đó bác bỏ mọi cải cách”.

Đối với vai trò nhà cầm quyền, chủ nghĩa nhân vị thần thánh hóa vai trò người cầm quyền, mà ở đây là Ngô Đình Diệm và gia đình. Các tác giả Lê Thị Tuyết, Dương Quốc Quân (sách đã dẫn) nhận định: “Nó cho rằng quyền xã hội là quyền do Chúa ủy thác cho người nào đó, để người ấy thay chúa trị vì thiên hạ. Nó đòi hỏi mỗi nhân vị phải phục tùng quyền lực đó như “sứ mạng”, “trách nhiệm” đối với Đấng tạo hóa, thậm chí phải hy sinh tính mạng của mình cho quyền lực. Bổn phận đối với chính phủ còn cao hơn đối với cha mẹ, nếu bổn phận đối với cha mẹ mười phần, thì bổn phận đối với chính phủ còn gấp trăm, nghìn lần, vì đây là “ân huệ tràn trề”, “tình thương vô biên” của tạo hóa ban phát cho loài người.

Đề tài về quyền xã hội do chúa ủy thác này rất gắn với chủ nghĩa nhân vị Mỹ mà có lúc Diệm đã thừa nhận. Khác với nhóm E. Mounier ở Pháp, nó ra sức bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây không chỉ đơn thuần là việc bắt chước một học thuyết của nước ngoài. Đằng sau chủ nghĩa nhân vị Mỹ này, người ta thấy hiện lên hệ tư tưởng Khổng giáo với đạo tam cương hà khắc. Đó là vũ khí tinh thần cần thiết của tập đoàn địa chủ mại bản ở miền Nam Việt Nam trong những năm 60 của thế kỷ XX”.

Niềm tin vào “mệnh trời” ở Ngô Đình Diệm ngày càng củng cố sau các thành quả chính trị quân sự, như hạ bệ Bảo Đại, đánh dẹp Bình Xuyên và Hòa Hảo, mua chuộc tướng lĩnh quân đội Cao Đài, loại trừ Hộ pháp Phạm Công Tắc, dập tắt đảo chính của quân dù trước đó. 

Niềm tin “mệnh trời” ở Ngô Đình Diệm đã lên tới tột đỉnh khi bom đánh trúng phòng ông ở, lúc ông đang có mặt mà không nổ, nơi cư trú của gia đình ông bị san bằng mà hầu như không ai hề hấn gì. Ông Diệm coi đây là sự linh nghiệm của tôn giáo mà ông đang tôn thờ, sự xác tín của thứ triết học mà ông đang truyền bá. Ông ta tự xác định mình được sự che chở của Thượng đế theo mệnh trời một cách thiêng liêng, trở thành một tổng thống bất khả xâm phạm.

Do vậy, phản ứng của Ngô Đình Diệm sau cuộc ném bom không phải là bàng hoàng, hoảng hốt, sợ hãi, mà điềm tĩnh, tự tin, chiến thắng có phần đắc chí. Khía cạnh triết học của cuộc ném bom bắt đầu từ đây. Trong diễn văn ngắn trên đài phát thanh sau cuộc ném bom, ông Diệm nói mình thoát chết là do sự bảo vệ thiêng liêng.

Không lâu sau khi thoát hiểm, ông Diệm đi thăm các binh sĩ bị thương trong cuộc không kích, đơn vị không quân có máy bay không kích… Sau đó nữa là một thánh lễ tạ ơn được quảng bá rầm rộ như một cuộc khải hoàn vinh quang.

Bộ máy truyền thông của chính quyền Ngô Đình Diệm đã ra sức tuyên truyền cho điều được gọi là sự bảo vệ thiêng liêng này, nhằm củng cố cho quyền lực của chế độ.

Tất nhiên, việc thoát chết của tổng thống Diệm được sử dụng như một minh chứng cho triết học nhân vị với vị tổng thống “thiên mệnh”, được thượng đế che chở. Rằng việc cai trị của tổng thống là “do Chúa ủy thác”, không thể thay đổi, không thể đảo ngược.

Về khía cạnh tôn giáo, các thánh lễ tạ ơn được tổ chức ở các xứ đạo thể hiện niềm tin thiên chúa ủng hộ và che chở tổng thống, tổng thống là người trời, là bất khả xâm phạm. Từ đó, lan truyền những tin đậm màu sắc tôn giáo, như có người đã thấy Đức Mẹ hiện ra trên Dinh Độc Lập khi 2 máy bay Skyraider ném bom. Người ta coi việc bom rơi trúng phòng tổng thống mà không nổ là một phép lạ, một sự mầu nhiệm của ơn trên…

Cả tổng thống, gia đình, nhiều người trong bộ máy chính quyền và bộ phận tín đồ một tôn giáo đã như bị say thuốc trong chiến dịch tuyên truyền mang màu sắc triết học nhân vị. Họ tin cũng đúng, bởi ngoài cỗ máy tuyên truyền được huy động đến công suất đỉnh, còn một sự thật rất hiển nhiên và ấn tượng là Dinh Độc Lập sụp gần hết cánh trái, mà gia đình tổng thống, trong đó có giám mục Ngô Đình Thục vô sự. Trong khi đó, trong Dinh Độc Lập, có 3 người chết và 30 người khác bị thương.

Báo chí đăng bức ảnh bà Ngô Đình Nhu đứng trên đống đổ nát của Dinh Độc Lập, chỉ tay kẻ cả không phải với nét mặt đau xót, tiếc nuối, buồn bã, mà là kiêu hãnh, phấn chấn, tự tin. Một cuộc tấn công với 2 phi cơ đầy bom đạn, nửa giờ chiếm lĩnh bầu trời Sài Gòn, Dinh Độc Lập sụp đổ, nhưng nhà Ngô vẫn đứng vững, quyền lực vẫn nguyên vẹn. 

Báo chí đăng bức ảnh bà Nhu đứng trên đống đổ nát của Dinh Độc Lập, chỉ tay kẻ cả không phải với nét mặt đau xót, tiếc nuối, buồn bã, à là kiêu hãnh, phấn chấn, tự tin. (Ảnh: LIFE Magazine)

Những hệ quả
Các vấn đề triết học liên hệ đến việc ném bom Dinh Độc Lập, được cỗ máy tuyên tuyền của chế độ Ngô Đình Diệm khuếch đại, đã có những tác động ngược chiều và tai hại cho chính chế độ Ngô Đình Diệm.

Ngô Đình Diệm và gia đình từ tháng 2/1962, đã xử lý công việc chính trị với tư duy “thiên mệnh”, “được ơn trên bảo vệ” lên đến đỉnh điểm. Người ta thấy một sự ngạo mạn mang màu sắc duy tâm triết học. Tư duy ngạo mạn mang màu sắc triết học nhân vị đó đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm lên đến đỉnh điểm độc tài, tàn bạo và mù quáng. Triết học nhân vị kiểu Ngô Đình Nhu được xác định đúng đắn trong thực tế và có tính chất thiêng liêng, nên ảnh hưởng của nó đối với hoạt động chính trị của chế độ Diệm trở nên tuyệt đối.

Triết học nhân vị trong môi trường như thế sau cuộc ném bom bất thành đến kỳ lạ đã làm Diệm và chế độ điều khiển chính sự miền Nam không còn bằng đầu óc của một nhà chính trị tỉnh táo nữa, mà bằng sự tự tin mụ mị, khinh thường tất cả phản ứng nguy hiểm. Pháp nạn 1963 diễn ra trong bối cảnh đó.

Triết lý trong sự kỳ thị và áp bức Phật giáo của chế độ Diệm là từ triết học nhân vị kiểu Nhu, được củng cố bởi niềm tin “thiên mệnh” lên tới cao điểm sau vụ ném bom. Tư tưởng công đồng Trent (1545-1563), cốt lõi của chủ nghĩa nhân vị kiểu Ngô Đình Nhu là tư tưởng coi mọi tôn giáo khác ngoài Ca tô La Mã đều là ma quỷ với sự miệt thị. Những người theo triết học nhân vị này, trong tình trạng say thuốc “thiên mệnh”, đã đối xử với Phật giáo một cách hết sức tàn bạo và không sợ những hậu quả có thể phát sinh. Chính điều đó đã dẫn chế độ Diệm đến chỗ sụp đổ.

Cuộc ném bom Dinh Độc Lập năm 1962 có quan hệ gián tiếp với pháp nạn Phật giáo 1963 như vậy. Nó tạo một hiệu ứng triết học, từ đó ảnh hưởng đến hành động của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với tất cả mọi trường hợp, trong đó có việc gây ra pháp nạn 1963. Có thể thấy điều này khi so sánh với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Giữa chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và Phật giáo miền Nam cũng có mâu thuẫn, nhưng chính quyền Thiệu giải quyết vấn đề không bằng cơn say triết học nhân vị thiên mệnh, nên có những diễn tiến khác.

Quan điểm ảnh hưởng của triết học nhân vị thiên mệnh về tổng thống “mệnh trời” được đấng thiêng liêng bảo vệ cũng có thể làm những người tuy theo Diệm, thậm chí trong các lực lượng vũ trang, bán quân sự do Diệm Nhu lập ra, nuôi dưỡng nhưng đã đứng trơ ra nhìn cuộc đảo chính 1/11/1963, vì tin là tổng thống bất khả xâm phạm, giao phó mọi việc cho trời lo, mà trời rõ ràng cứu Diệm trong cuộc không kích 1962.

Bài này được viết để gởi đến những người bài Phật giáo ở hải ngoại đang toan tính phục hồi Ngô Đình Diệm cùng với triết học nhân vị. Cơn say thuốc triết học nhân vị từ 2/1962 cần được ghi nhận một cách nghiêm túc. Triết học nhân vị kiểu Ngô Đình Nhu đã lên đến đỉnh điểm từ những sự “mầu nhiệm” hay “phép lạ” như thế. Phục hồi Ngô Đình Diệm và những tư tưởng của ông ta qua triết học nhân vị, bài xích Phật giáo, chính là trở về với vết xe đổ hơn 50 năm trước. 

Lịch sử đã làm cho thuyết lý về sứ mệnh trị quốc thiêng liêng, về một tổng thống “mệnh trời” sụp đổ một cách thảm hại. Triết học nhân vị của Ngô Đình Nhu không phải chỉ là một mớ hỗ lốn triết học của E. Mounier, triết học nhân vị Mỹ, công đồng Trent, mà đã trở thành trò cười từ chiến dịch tuyên truyền sau cuộc không kích Dinh Độc Lập 1962. 

Những người lớn tuổi đã trải qua những ngày tháng hơn 50 năm trước nên nhớ lại việc này khi nói chuyện hoài niệm nhà Ngô. Còn những người trẻ ở hải ngoại thì nên biết có một chuyện bi hài như thế đã xảy ra, khi nghe những luận điệu “suy tôn Ngô Tổng Thống”.

Về mặt học thuật, bài viết muốn cung cấp cho bạn đọc nói chung một nội dung tìm hiểu mới về bối cảnh diễn ra Pháp nạn Phật giáo 1963, một vấn đề Phật giáo Việt Nam cần nghiên cứu.

Minh Thạnh
______________________________
(1)    Nhiều ý kiến quanh việc này. Có ý kiến cho rằng số vũ khí một máy bay cường kích Skyraider A1 mang theo, 3600kg mà ở đây là 2 chiếc, có thể san bằng Dinh Độc Lập, một tòa nhà xây dựng cuối thế kỷ XIX, lợp ngói, không bê tông cốt thép, khi đánh sập các cột chính. Nhưng Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử không muốn phá nát Dinh Độc Lập, mà chỉ nhắm đánh vào căn phòng riêng của Ngô Đình Diệm, là nơi ông này theo thông lệ có mặt vào buổi sáng sớm. Skyraider A1 là máy bay cánh quạt, có thể bay chậm và khi không kích Dinh Độc Lập đã bay rất thấp (150 mét, theo Wikipedia tiếng Anh, mục từ “1962 South Vietnamese Independence Palace bombing”), ném bom rất chính xác. Người viết bài này từng thấy phi công quân đội Sài Gòn dùng Skyraider A1 biểu diễn ném bom giả rơi đúng vào một chiếc thùng nổi trên sông Sài Gòn. Nếu san bằng Dinh Độc Lập thì cả gia đình Ngô Đình Diệm sẽ bị vùi trong đám đổ nát, kết quả có thể khác, nhưng nhiều người không liên quan đến gia đình họ Ngô sẽ đều chết hết. Chỉ vì 2 phi công đảo chính quá tự tin và không muốn hại người vô can, nên họ không đạt kết quả, chứ không có phép lạ gì ở đây. Trong bài “Phạm Phú Quốc và phi vụ thả bom Dinh Độc Lập, Sài Gòn, 1962”, đăng trên hon.net.co.uk, một phi công lái máy bay đánh chặn cuộc tấn công của Phạm Phú Quốc – Nguyễn Văn Cử viết rằng Phạm Phú Quốc có thả bom an toàn trên sông Sài Gòn trước khi đáp xuống nước. Bài này diễn giải “thả bom an toàn là thả bom mà ngòi nổ còn gài chốt, nên bom rời khỏi phi cơ, chìm xuống nước mà không nổ”.

Việc bom không được ném hết cho thấy các phi công đảo chính không có ý định san bằng Dinh Độc Lập.
Source: Phật Tử Việt Nam

Minh Thạnh
http://nguoiphattu.com/van-hoa/van-hoc-tuy-but/8299-canh-mai-va-cay-thong-trong-tam-tu-cua-thay-giac-tam.html

Làm nhục mua vui và tàn nhẫn giải khuây

TTCT - “Con người được sinh ra để vui. Nếu họ không vui được về cái đẹp của bản thân thì sẽ vui về cái xấu xí của người khác” (Franz Schönthan von Pernwaldt).


                                                  Ném đá
Hai bảo mẫu Lê Thị Đông Phương và Nguyễn Lê Thiên Lý bị tòa tuyên án 3 năm tù giam vì tội bạo hành trẻ em (ngày 20-1-2014), trước Tết Nguyên đán đúng 11 ngày. Đọc những phản ứng của cư dân mạng sau khi phiên tòa xảy ra, một loại bình luận làm tôi chú ý, bởi chúng có điểm khác. Ví dụ, bình luận này được 15.000 likes: “Lý cho rằng không biết hành vi của mình là phạm tội mà chỉ muốn các cháu bé được ăn uống đầy đủ, ngoan ngoãn :)) anh cũng muốn hai em được ngoan”.

Một người khác phụ họa: “Giao hai cô này để mình trông giúp cho”.

Bình luận này cũng được 5.000 likes: “Ăn tết vui vẻ sau song sắt nhé hai em:)”.

Hai bảo mẫu Phương và Lý đã trở thành Internet meme, những tấm hình chèn chữ được cho là “vui nhộn” lan tỏa trên mạng như virút. Trở thành meme là minh chứng chắc chắn nhất cho sức hấp dẫn của một sự việc - nó chinh phục được cộng đồng mạng, làm họ thích thú và hào hứng để trình diễn sự “sáng tạo” của mình. Chế ảnh về hai cô bảo mẫu trở thành thời thượng, nó đóng góp cho “kho tàng văn hóa” mạng. Ai muốn sành điệu, người đó tham gia.

Các ảnh chế được một số tờ báo đăng lại một cách vô tư. Có tờ chạy một bài dài với các ảnh “xuất sắc” nhất. Trong một ảnh, một người đàn ông tóc tai bù xù giơ hai tay phát biểu: “Cô bảo mẫu này lên hình như thế, vậy là suốt đời sẽ không lấy được chồng nữa đâu nhỉ”. Tác giả bài báo xác nhận: “Câu nói đùa của dân mạng nhưng cũng là sự thật: vết nhơ này sẽ theo suốt cuộc đời của các bảo mẫu”.

Trong một ảnh chế khác, vẽ hình hai cô bảo mẫu đầu cúi gằm, đứng trước tường, bên trên là dòng chữ: “Là người Việt Nam lương thiện, tôi muốn pháp luật trả tự do cho đôi này”, và bên dưới là dòng chữ: “Từ độ cao 1.000m”.

Cứ như thể có thể nghe được tiếng cười khoái trá của đám đông vọng ra.

Những niềm vui thiệt hại

Chúng ta nhìn thấy điều gì ở đây? Một sự hài lòng, sung sướng, hả hê trước số phận của hai bảo mẫu. Người Đức dùng chữ Schadenfreude để chỉ cảm xúc này, kết hợp hai chữ Schaden (thiệt hại) và Freude (niềm vui). Niềm vui về cái bất hạnh, cái không may, cái tai họa, người ta vui chính vì cái tai họa đó rơi vào đầu người khác.

Có thể gọi đó là một niềm vui độc địa. Nó có thể kín đáo (ta thầm khoái trá khi thấy tay hàng xóm bị đâm móp chiếc ôtô mới tậu), hoặc có thể được phô trương không ngần ngại, trở thành giễu cợt, chế nhạo, châm biếm, được thông báo thẳng cho đối phương mà không cần che giấu. Triết gia Arthur Shopenhauer cho rằng niềm vui này là cảm xúc ma quỷ nhất mà người ta có thể có: “Ghen tị là một phần của con người, nhưng thưởng thức niềm vui trên nỗi đau của người khác thì là ma quỷ”.

Những bình luận “vui vẻ” về hai bảo mẫu chỉ là phần nổi của tảng băng chìm khổng lồ. Vui khi người khác bị nhục và vui khi làm nhục người khác, đó là hai mặt của một đồng xu. Hiện tượng này phổ biến trong xã hội hơn là chúng ta tưởng và nhiều khi chúng ta tham dự vào nó một cách vô thức. Nó được thể hiện rõ nhất, công khai nhất, rộng khắp nhất, yêu thích nhất qua các chương trình truyền hình thực tế, khi nhiều thí sinh tối tối trở thành những chú hề bất đắc dĩ, thành trò cười cho hàng chục triệu người khắp cả nước.

Ngay từ năm 2002, thời truyền hình thực tế trên thế giới còn mới trứng nước, so với mức độ thô thiển của bây giờ thì một trời một vực, hai nhà nghiên cứu Brad Waite và Sara Booker đã đưa ra khái niệm humilitainment. Chữ này được cấu thành bởi hai chữ humilitation (làm nhục) và entertainment (giải trí), trong tiếng Việt ta có thể gọi là “làm nhục mua vui”. “Làm nhục mua vui” trên truyền thông là một xu hướng của văn hóa đại chúng, nó tạo ra những đấu trường La Mã của thời hiện đại, tái tạo những triển lãm đầu thế kỷ 20 đưa người lùn và người dị tật để đám đông thưởng ngoạn như trong sở thú. “Làm nhục mua vui” kiếm tiền bằng cách khuyến khích người khác biểu diễn những trò lố bịch, hoặc đặt họ vào những tình huống đáng xấu hổ.

Và nhiều người sẵn sàng trả tiền để xem. Báo chí thường xuyên đăng tải tỉ mỉ các “tiết mục thảm họa”, các pha “dở khóc dở cười”, các màn “khó đỡ” của các chương trình truyền hình thực tế. Thậm chí, các tiết mục này trở thành một vũ khí lợi hại của một số sô, cả nhà sản xuất, người xem và truyền thông đều rất ý thức được điều này. Năm qua, VTC News xác nhận: “Những màn trình diễn thảm họa luôn là “đặc sản” của Vietnam Idol qua các mùa” và bình luận tiếp: “Khán giả đã được... “cười thả ga” với những tiết mục “thảm họa” và những khoảnh khắc thú vị của ban giám khảo...”.

Lưu ý là chỉ ba năm trước, cũng trang này còn băn khoăn: “Got Talent: Câu khách bằng cách xúc phạm thí sinh?” và lên án chương trình “cố tình chọn các tiết mục làm trò cười cho khán giả”. Đây là một trích đoạn từ một bài báo năm 2012: “...yếu tố câu khách đã khiến đạo diễn chương trình Vietnam’s Got Talent trở nên coi thường thí sinh và gia đình họ khi khoét quá sâu vào những ngây ngô của gia đình thí sinh Lê Nguyễn Quỳnh Anh khiến họ trở nên lố bịch trước hàng triệu khán giả truyền hình. Hẳn sau này thí sinh 15 tuổi này sẽ còn phải đối mặt với nhiều những lời bàn tán dị nghị về cách cư xử của mình cũng như của gia đình. Có cần hay không khi phải gây tổn thương với thí sinh và người nhà thí sinh như thế để câu khách?”.

Giờ đây, những băn khoăn trên đã không còn, nhường chỗ cho những “trận cười thả phanh”, những “phút giây thư giãn”. Những phản ứng và nhận xét “vô cùng hài hước” của các giám khảo, được thảy vào mặt thí sinh và được mọi người tán thưởng, thì như thế này: “Em hát nghiến răng rất là ghê và cách hát của em cứ như đang đay nghiến ai đó” (giám khảo Quốc Trung),“Hình tượng của em là Thỏ mà sao em hát như Cáo vậy!?” (giám khảo Quang Dũng, với thí sinh đeo nơ to như tai thỏ).

Vui vì “so sánh xuống”

Đằng sau niềm vui độc địa là diễn biến tâm lý gì? Vì sao người ta thích xem người khác bị làm nhục?

Một lý giải tới từ thuyết so sánh xã hội, được xây dựng từ những năm 1950 bởi nhà tâm lý học Leon Festinger. Theo thuyết này, ta hay có xu hướng đánh giá bản thân không qua những chuẩn khách quan, mà qua việc so sánh mình với người khác. Ta thấy giá trị của mình được nâng lên khi người khác vấp ngã. Đó cũng là lý do những người thiếu tự tin thì hay có cái niềm vui độc địa này hơn những người khác. Một học sinh giỏi có thể sẽ thương cảm cậu bạn bị điểm kém, còn tay học kém sẽ khoái trá khi thằng bàn trên còn bị điểm thấp hơn mình và cảm thấy bản thân mình cũng “không đến nỗi”. Người thiếu tự tin thường xấu hổ và ghen tị khi thấy mình kém cỏi hơn, khinh khỉnh và kiêu ngạo khi cho rằng mình hơn người khác.

Và giống như những người nghiện, hằng ngày họ đi tìm lỗi của người khác để được sống trong cảm giác của người đứng bên trên. Richard Smith, tác giả cuốn Niềm vui từ nỗi đau, viết rằng chúng ta thích xem những “pha khó đỡ” trên truyền hình thực tế vì chúng làm ta thấy rằng cuộc đời của mình cũng không đến nỗi tệ. “Nhìn xuống”, như người ta vẫn nói, sẽ làm ta nhẹ nhõm hơn, vì ta thấy “không ai bằng mình”. Thuật ngữ chuyên môn ở đây là “so sánh xuống” và theo Richard Smith, nó đem lại một niềm vui khoái trá.

Niềm vui độc địa có một người chị ruột: ghen tị. Ghen tị là nỗi đau khi người ta thấy người khác thành công hay gặp may, niềm vui độc địa là niềm vui khi người khác vấp ngã. Đằng sau sự ghen tị cũng là sự tự ti. Càng tự ti thì càng hay ghen tị, càng hay ghen tị thì càng hay cười trên nỗi đau của người khác. Nhà văn Pháp thế kỷ 17 François de la Rochefoucauld viết: “Nếu bản thân chúng ta không có những khiếm khuyết thì chúng ta đã không khoái chí như vậy khi phát hiện ra những khiếm khuyết của người khác”. Nhà văn Mỹ Gore Vidal có một câu tự châm biếm nổi tiếng: “Mỗi lần một người bạn thành công, tôi lại chết ở trong lòng một ít”. Một câu khác, được cho là của nhà văn Somerset Maugham thì như thế này: “Sự thành công của ta không thôi không đủ, người khác phải thất bại nữa cơ”.

Đó cũng là lý do chúng ta dễ đồng cảm và yêu thương những người đã trải qua hoạn nạn hơn, chúng ta không ghen tị với họ. Họ không thể hơn ta được. Ngược lại, có điều gì không may xảy ra với người mà trước đó ta đã ghen tị với họ, ta sẽ thấy hả hê hơn.

Trong trường hợp của các bảo mẫu hay là hai người ăn cắp kính ở Thụy Sĩ, người ta còn hả hê vì cho rằng những người này xứng đáng bị như vậy. Lúc này, người ta có thể công khai trưng bày niềm vui độc địa của mình ra mà không phải che giấu nó hay xấu hổ về nó. Cảm xúc độc địa được khoác một cái áo là ủng hộ lẽ phải và công lý. Trong thực tế, tất nhiên, nó không liên quan gì tới công lý cả. Hãy hình dung một người bạn thân của bạn vi phạm pháp luật và chịu án tù. Bạn có thể buồn, đau xót, bạn có thể thấy hình phạt là hợp lý, nhưng bạn sẽ không hả hê vì công lý đã được thực thi. Lúc đó, nhìn những người hả hê, bạn sẽ thấy sợ hãi.

Liều thuốc tăng đô

Nếu niềm vui độc địa xảy ra khi chứng kiến kẻ khác gặp nạn, dù không nhất thiết góp tay tạo ra cái hoạn nạn đấy thì với nhiều người, điều đó không đủ. Họ cần một liều thuốc mạnh hơn, họ tàn nhẫn để giải khuây.

Trong số những clip bắt trộm, đánh trộm trên YouTube, một cái làm tôi chú ý. Khác những clip khác, ở đây người mất trộm - một thanh niên thấp và vạm vỡ - không đánh đập, không chửi bới, mà nhốt kẻ trộm trong một cái lồng gà lớn, nói một bài giáo huấn dài, rồi bắt anh ta hát hai bài. Kẻ trộm ngồi xổm trong lồng gà, đầu gối quá mang tai, vừa thút thít không ngừng vừa lí nhí và run run hát “anh yêu bình minh...”. Cậu thanh niên ngồi trên chiếc ghế nhựa đỏ bên cạnh, đánh nhịp một cách cường điệu. Clip kéo dài 4 phút và được hơn 600.000 lượt xem.

Phản ứng đầu tiên của tôi là bật cười, thậm chí còn khen thầm kẻ bắt trộm là sáng tạo. Chắc nhiều người cũng nghĩ giống tôi. Một người xem bình luận:“Rất khâm phục anh. Một đức tính nhân từ và vị tha và bản lĩnh”. Nhưng ngay sau đó tôi tự hỏi, liệu bắt nạn nhân phải hát hay múa, trong một trạng thái hoảng sợ, ở một tư thế quái đản, có phải là làm nhục không? Cái kỹ thuật này có phổ biến không, nó có kinh điển không? Tìm hiểu thêm, tôi phát hiện ra hành động của người bắt trộm này nằm trong một truyền thống lâu đời từ Đông sang Tây: dùng âm nhạc để làm nhục. Thật ra, nó được coi là một biện pháp tra tấn. (Tra tấn: theo định nghĩa của Tổ chức Ân xá quốc tế, được hiểu là hành vi cố tình và có hệ thống đem lại sự đau đớn về thể xác hay tâm lý trong một thời gian nhất định cho nạn nhân).

Cuốn Mặt tối của giai điệu: nhạc pop và bạo lực của hai tác giả Bruce Johnson và Martin Cloonan kể ra một loạt ví dụ. Trong cuộc nội chiến ở Nam Tư cũ, các tù binh người Croatia bị quân Serbs bắt hát quốc ca của Nam Tư hai lần trong ngày và bị đánh nếu họ không hát đủ lớn. Năm 2002, ở Zimbabwe, để trừng phạt việc bố một cô bé 12 tuổi tham gia phong trào dân chủ chống lại chính quyền, cô bé bị hiếp tập thể trong khi mẹ và các em cô chứng kiến và bị bắt hát các bài hát ca ngợi tổng thống Mugabe. Năm 2004, một sĩ quan Israel tại một trạm kiểm soát bắt một nhạc công Ả Rập chơi“nhạc gì đó buồn” trong khi những người lính khác đứng xung quanh chế nhạo, rồi mới cho anh ta đi qua.

Có hệ thống nhất là phát xít Đức, họ chọn ra các tù nhân biết chơi nhạc và lập ra các dàn nhạc ở các trại tập trung. Riêng trại khét tiếng Auschwitz có tới sáu dàn nhạc, mỗi dàn nhạc có tới hơn 100 nhạc công. Các nhạc công được hưởng một chế độ ăn uống tốt hơn, được tắm rửa hằng ngày và chừng nào họ còn chơi được nhạc thì không bị cái chết đe dọa. Một trong những nhiệm vụ của các dàn nhạc là chơi thể loại nhạc du dương hoặc quân nhạc trong khi những tù nhân khác bị dẫn vào lò thiêu. Trong cuốn sách Chơi nhạc câu giờ (Playing for time), bà Fania Fénelon, một nhạc công ở trại Auschwitz, kể lại trải nghiệm cá nhân: “Chúng tôi phải chơi nhạc liên tục hàng giờ liền và trong thời gian đó, mắt chúng tôi dõi theo hàng ngàn người xếp hàng bước đều vào các lò thiêu và phòng hơi ngạt”. Tỉ lệ tự tử của các nhạc công cao hơn của tất cả các nhóm tù nhân khác trong trại.

Tác giả M.J. Grant cho rằng bắt nạn nhân hát hay múa là cách khẳng định tuyệt đối nhất, đắc thắng nhất quyền lực và vị trí thượng đẳng của kẻ tra tấn. Hơn bất cứ cú đấm đá nào, sự làm nhục này bẻ gãy lòng tự trọng, cái tôi và nhân phẩm của người kia. Hơn tất cả các bạo lực vật lý, sự làm nhục này chạm tới cái cơ bản nhất của cá nhân người kia. Khi người ta không còn được kiểm soát những âm thanh mình phát ra, phải đóng giả vui vẻ trong một trạng thái hoảng loạn, sự quy hàng là tuyệt đối. Bị chiếm đoạt giọng nói, phải nói giọng của người khác còn kinh khủng hơn là bị ra lệnh câm mồm. Nó tương đương việc lính Mỹ bắt các tù nhân Iraq trong trại Abu Ghraib thủ dâm để họ xem. Hay việc người theo đạo Hồi bị bắt phải tiểu tiện bên trong nhà thờ Hồi giáo của mình, như đã xảy ra trong cuộc nội chiến ở Nam Tư cũ. Nó bắt người ta tự tay xóa sổ danh dự của mình.

Chết cũng không thoát

Không phải ai cũng “may mắn” tóm được trộm trong nhà để có thể quay một clip có hơn nửa triệu người xem. Nhiều người bằng lòng với những cái khiêm tốn hơn. Hàng tháng trời, Nhâm Thị Hồng Phương, một trong hai người ăn cắp kính ở Thụy Sĩ, bị khủng bố điện thoại. “Cứ từ chiều, khi họ bắt đầu uống vào, họ gọi tới chửi bới, hay nhắn tin đe dọa, kéo dài tới tận đêm”. “Họ độc ác lắm anh ạ” - Phương nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại.

Cái ta nhìn thấy ở đây là sự tàn nhẫn khi người ta nhàn hạ: buổi chiều tan việc, ta tụ tập làm cốc bia và hành hạ người khác chơi. Ở trên mạng, tàn nhẫn giải khuây lại càng dễ. Nhiều khi nó chỉ mang hình dạng của nút share. Giữa tháng 6-2015, nữ sinh T., 15 tuổi, ở Đồng Nai, bị bạn trai tung clip sex lên mạng. Chỉ trong hai ngày, có gần 300.000 người xem, 18.000 likes, 4.000 lượt share, hàng ngàn bình luận, vừa đay nghiến vừa cợt nhả. “Hàng ngon thế!” và “Đẹp mặt chưa bé gái!” và “Bị tung clip là đáng, mới tí tuổi đã đua đòi”. Bố mẹ T. van xin cộng đồng mạng “hãy tha cho cháu”. Cộng đồng mạng lại càng đổ xô vào, cùng nhau khui ra trang Facebook của T. và bạn trai. Hàng ngàn người follow T., chuyền nhau các ảnh cá nhân, bình phẩm về cơ thể của T., gọi cô là bán dâm chuyên nghiệp, và rủa: “Chết đi đồ hư hỏng”.

Hai hôm sau, T. uống thuốc diệt cỏ tự tử.

Sau cái chết của T., người ta vẫn tiếp tục dè bỉu “không biết giữ mình thì bây giờ trách ai?” hoặc “có ai bắt nó phải chết đâu”. Người chết thì không nghe được, nên họ quay ra lăng nhục bạn trai cô: “Đ.M thằng chó... hên cho mày là đéo gặp tao... gặp là mày chết mẹ mày với tao rồi” và “Loại này chết đi là vừa, sống chi cho chật đất”.

Một động tác đưa cái clip lên mạng chưa làm T. chết, nó chỉ buộc cô vào một cái cọc, nhưng hàng chục ngàn người xem và chuyền tay nhau, mỗi người đã góp một viên đá để ném cô tới chết.

Tôi cố gắng đi qua hàng trăm bình luận trên mạng, một công việc khó khăn. Xen lẫn giữa các câu lăng mạ kiểu “kiếp sau cho nó thành chó thiến” là trùng trùng những câu hỏi nhớn nhác “ai có clip hk cho xem với”. Trong nửa sau của tháng 6-2015, “nữ sinh 2000” là từ khóa được tìm nhiều nhất. Khác với các trường hợp bảo mẫu hành hạ trẻ, hai người ăn cắp kính, Hồ Ngọc Hà hay Dương Tường, ở đây họ tàn nhẫn không phải vì căm ghét mà để tiêu khiển.

Tàn nhẫn giải khuây không chỉ giới hạn ở cư dân mạng Việt Nam. Hiện tượng trolling, tạm gọi là đầu gấu trên mạng, lên mạng chỉ với mục tiêu làm nhục, miệt thị, quấy rối, khiêu khích người khác, đã trở thành nỗi đau đầu của nhiều quốc gia. Cuối tháng 3-2015, một phi công của Hãng hàng không Germanwings trong khi bay từ Barcelona (Tây Ban Nha) tới Dusseldorf (Đức) đã đâm máy bay vào vách núi tự sát, kéo theo cái chết của 150 hành khách, trong đó có nhiều người vùng Catalan của Tây Ban Nha, vốn có truyền thống đòi tự trị. Ngày hôm sau, trên Twitter đầy những tin ăn mừng. “Nếu có tụi Catalan trên đó thì vụ này hay đấy” và “Một máy bay đầy dân Catalan và Đức rơi ở Pháp. Ba lần thắng lớn!” và “Từ từ nào, có gì kinh khủng đâu. Tụi Catalan trên máy bay ấy mà, không phải người đâu”.

Một trò được các troll - đầu gấu mạng - ưa thích là vào các trang tưởng niệm người quá cố trên Facebook, lăng mạ gia đình người chết hay khách viếng thăm trang đó. Hiện tượng này được nhà nghiên cứu Whitney Phillips đặt tên là “RIP trolling”. Các troll không cần tiền, mục tiêu của họ là tiếng cười khoái trá, thu hoạch được từ những phản ứng của người bị làm nhục.

Tình hình tệ tới mức năm 2015, cả New Zealand và Anh đều ra một đạo luật chống troll, với mức án tới 2 năm tù giam. Bộ trưởng Tư pháp Anh Chris Grayling phát biểu: “Đây là những kẻ hèn nhát, chúng đầu độc cuộc sống của quốc gia. Điều luật này nhằm chống lại sự độc ác, nó đánh dấu quyết tâm của chúng ta ngăn chặn những kẻ du côn trên mạng”.

Theo tờ Telegraph của Anh, năm 2015, trong khuôn khổ Luật giao tiếp ác ý (Malicious Communications Act) của nước này, trung bình cứ mỗi ngày có năm người bị kết án vì đã gửi tin nhắn, email...với mục đích lăng nhục, khủng bố người khác, một con số cao gấp 10 lần so với thập kỷ trước.

Phải chăng chúng ta đang sống trong một văn hóa của căm ghét và làm nhục? Và nếu phải, những yếu tố gì tạo ra nó, tưới tắm để nó nảy nở?

Đặng Hoàng Giang/ Tuổi Trẻ

THỨ TRƯỞNG TÔ LÂM TIẾP ĐẠI SỨ LƯU ĐỘNG PHỤ TRÁCH TỰ DO TÔN GIÁO QUỐC TẾ, BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ

Sáng 29-3, tại Hà Nội, Thượng tướng Tô Lâm, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam tiếp ông David Saperstein, Đại sứ lưu động phụ trách Tự do tôn giáo quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.

Phát biểu tại buổi tiếp, Thứ trưởng Tô Lâm khẳng định: Nhân quyền vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển và công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Các quyền con người được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế. Mọi người dân đều được thực hiện các quyền tự do của mình. Việt Nam hiện là thành viên của hầu hết các điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người, trong đó có Công ước về các quyền dân sự, chính trị; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa… 
Thứ trưởng Tô Lâm cùng Đại sứ lưu động phụ trách Tự do tôn giáo quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ David Saperstein.
Ở Việt Nam, 54 dân tộc anh em luôn đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm. Việt Nam là một quốc gia tự do tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người dân; điều đó đã được khẳng định trong Hiến pháp của Việt Nam. 
Chính phủ Việt Nam có chính sách nhất quán và luôn nỗ lực để đảm bảo đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, coi đây là một mục tiêu quan trọng đi cùng với công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Mỗi người dân có tín ngưỡng hay không theo tín ngưỡng tôn giáo đều được tôn trọng và thực hiện theo luật pháp Việt Nam. 
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều tôn giáo khác nhau. Các tôn giáo đều hướng tới xây dựng một đất nước hòa bình, ổn định, phát triển. Trong những năm qua, Bộ Công an Việt Nam đã thực hiện tốt 2 nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà Nhà nước, Chính phủ Việt Nam giao cho là đoàn kết mọi người dân có tôn giáo hay không theo tôn giáo, xây dựng một nước Việt Nam phát triển và chống xung đột tôn giáo. Các tôn giáo chung sống hòa hợp, các chức sắc, tín đồ tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 
Các đại biểu tại buổi tiếp. 
Thứ trưởng Tô Lâm tin tưởng rằng chuyến thăm, làm việc lần này của Đại sứ lưu động phụ trách Tự do tôn giáo quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ sẽ giúp hai bên chia sẻ, hiểu nhau hơn nữa vì lợi ích hai nước, vì mục tiêu phát triển và hòa bình của các nước trên thế giới và khu vực trong đó có vấn đề tôn giáo, nhân quyền…
Đại sứ lưu động phụ trách Tự do tôn giáo quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ David Saperstein bày tỏ vui mừng được quay trở lại thăm Việt Nam trong thời điểm quan hệ hợp tác hai nước đang phát triển hết sức tích cực; chân thành cảm ơn Thứ trưởng Tô Lâm đã dành thời gian tiếp; đánh giá cao các vấn đề nhân quyền, tự do tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam trong những năm qua; đồng thời tin tưởng rằng chuyến thăm, làm việc lần này sẽ đạt nhiều kết quả tốt; giúp hai bên chia sẻ, hiểu biết nhau hơn nữa trên các lĩnh vực hai bên cùng quan tâm…

NGUYỄN TƯỜNG THUỴ BỊ HỚ

Theo kết quả công bố sáng ngày 31/3, với đa số phiếu đồng ý (472 đại biểu (95% tán thành), bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã trở thành nữ Chủ tịch Quốc hội đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và cũng là người đầu tiên thực hiện quy định tuyên thệ khi nhậm chức. Với chức danh Chủ tịch hội đồng bầu cử Quốc gia, 467 đại biểu (91%) đồng ý để bà Ngân nhận nhiệm vụ mới, 10 phiếu không đồng ý, 7 phiếu không hợp lệ. Như vậy, căn cứ vào nội quy, bà Kim Ngân trúng cử Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch hội đồng bầu cử Quốc gia. Tờ trình Nghị quyết bầu hai chức danh trên được 100% đại biểu có mặt bấm nút thông qua.
Khi còn làm Bộ trưởng Bộ Lao động thương binh và xã hội, khi nghe tin cầu Cần Thơ sập, bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã không quản đường sá, bình dị trong bộ quần áo và bắt xe ôm cho kịp có mặt tại hiện trường (Nguồn: Báo PLO)

Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, hầu hết đều đăng các thông tin, bài viết về tân Chủ tịch Quốc hội VN, bà Nguyễn Thị Kim Ngân như một tấm gương sáng về nghị lực, sự tận tâm và là một nữ lãnh đạo vừa có tâm, vừa có tầm. Trên báo Pháp luật TP.Hồ Chí Minh đăng ngày 31/3/2016, có đăng bài viết "Nữ Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của Việt Nam: Một quan chức bình dị" của PV Nông Huyền Sơn. 

Nội dung bài viết phản ánh về sự kiện, năm 2007, nhịp dẫn cầu Cần Thơ bị sập trong giai đoạn đang thi công. Khi ấy, bà Nguyễn Thị Kim Ngân đang là Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, nghe tin, dù đang chuẩn bị chuyến công du nước ngoài, bà hủy bỏ để bay về Cần Thơ. Trong đó, có đoạn viết:
"Thời điểm đó, hầu hết các lãnh đạo đều được CSGT hướng dẫn đi vòng qua Cần Thơ đến bến Ninh Kiều, ngồi xuồng cao tốc để đến hiện trường. Với cách đi vòng xa như vậy, các vị lãnh đạo được ngồi xe ô tô đến tận bến tàu. Bà không chọn con đường đó mà đề nghị đi đường bộ để đến hiện trường nhanh hơn và đến gia đình các nạn nhân tiện hơn. Nhiều cán bộ địa phương nói đi thẳng như thế, bà sẽ phải đội nắng hơn 30 phút và chỉ có thể sử dụng phương tiện duy nhất là xe máy. Bất chấp lời khuyên, bà mượn một chiếc nón lá, nhờ một anh Honda ôm chở đi. Các cán bộ địa phương đành lục tục đi tìm xe máy chạy theo phía sau".
Và sau đó là kèm các bức ảnh về một bà Bộ trưởng mặc bộ quần áo giản dị, đội chiếc nón lá để che nắng, ngồi sau chiếc xe hiệu Honda của anh xe ôm để kịp đến hiện trường nhanh hơn và "đến gia đình các nạn nhân tiện hơn". Trong khi hầu hết cư dân mạng đang thi nhau chia sẻ bài viết này kèm những bức ảnh bình dị mà cao quý của tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thời còn làm Bộ trưởng Bộ Lao động thương binh và xã hội thì "lão già nát rượu" Nguyễn Tường Thuỵ lại dường như hả hê, đắc chí với "phát hiện" của mình. Rằng, Nguyễn Tường Thuỵ nói rằng "Không hiểu tờ báo này có ý gì mà lại đăng chùm ảnh bà Ngân ngồi xe máy không đội mũ bảo hiểm, cả cậu xe ôm luôn. Theo bài báo thì chùm ảnh này chụp vào năm 2007. Còn qui định bắt buộc đội mũ bảo hiểm có từ 7 năm trước đó".

Nguyễn Tường Thuỵ nghĩ rằng, với "phát hiện" đầy nhanh nhạy của mình thì sẽ được đồng bọn tung hứng vì đã tìm ra được thông tin nhằm hạ thấp uy tín của tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Nhưng, "lão già nát rượu" đã không ngờ rằng, sự "phát hiện" của y đã không nhận được sự đồng tình của đồng bọn vì đó là sự quy chụp, ngớ ngẩn. Theo bài báo thì bức ảnh cùng những thông tin trên là từ sự kiện cầu Cần Thơ bị sập năm 2007. Và theo Nghị quyết 32, Thủ tướng Chính phủ ban hành, một loạt các biện pháp kiên quyết cưỡng chế thi hành pháp luật trật tự ATGT được đưa ra. Theo đó, từ ngày 15/9/2007, người đi mô tô, xe máy trên tất cả các tuyến quốc lộ sẽ bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm (MBH). Và kể từ ngày 15/12/2007, người đi mô tô, xe máy trên tất cả các tuyến đường (kể cả trong đô thị) đều bắt buộc phải đội MBH.

Thế nhưng, Nguyễn Tường Thuỵ lại tỏ ra ngô nghê khi nói rằng, quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm "có từ 7 năm trước", ý là có từ năm 2000! Vụ sập cầu Cần Thơ là cuối tháng 9/2007. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân ngồi đằng sau xe máy, không đội mũ bảo hiểm mà thay vào đó là đội chiếc nón lá để che nắng là hoàn toàn không vi phạm luật giao thông vì đến ngày 15/12/2007 thì trên tất cả các tuyến đường, người đi mô tô, xe máy mới bắt buộc phải đội MBH. 

Với sự hấp tấp, sốt sắng trong việc cố lập "thành tích", tuy nhiên, sự ngô nghê, thiếu hiểu biết, chộp giựt của Nguyễn Tường Thuỵ đã quay ngược lại tố cáo bản chất của y. Nguyễn Tường Thuỵ nghĩ rằng, với sự "phát hiện" của mình thì sẽ có thể hạ bệ được uy tín của tân Chủ tịch Quốc hội, hiện đang được đại đa số nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên, "gậy ông đã đập lưng ông", mặc dù rất đông đồng bọn "dân chủ" vào góp ý là thông tin của Nguyễn Tường Thuỵ hoàn toàn sai nhưng với sự cố chấp, bảo thủ của mình, "lão già nát rượu" này đã không sửa thông tin vì lỡ to mồm trên mạng xã hội facebook. Một thông tin về quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm có từ khi nào còn chưa xác định được như thế này thì liệu Nguyễn Tường Thuỵ có đủ tư cách để ứng cử đại biểu Quốc hội và trở thành đại biểu Quốc hội hay không? Câu trả lời không cần phải nghĩ suy, đó là không. 

An Chiến

Nguyễn Đình Hà cộng tác với RFA?

Loa Phường
Kết quả hình ảnh cho blogger nguyễn đình hà
Nguyễn Đình Hà
Tình cờ ghé qua facebook của một ứng cử viên Đại biểu Quốc hội trẻ tuổi nhất là Nguyễn Đình Hà, dù đã biết rõ về vô số thành tích “đấu tranh dân chủ” của anh này cũng như việc bị chính quyền địa phương liệt kê “hành vi vi phạm pháp luật” vào hồ sơ ứng cử như tham gia tổ chức chống đối, câu kết với Việt tân, biểu tình trái phép, vi phạm trật tự bị xử phạt hành chính, …nhưng tôi thấy nghi ngờ khác là có vẻ như anh này còn đang cộng tác với đài RFA – một đài chống Việt Nam điên cuồng, cổ vũ và gắn bó mật thiết với Việt tân, một điều không được chính quyền địa phương nhắc tới.

Căn cứ nghi ngờ này của tôi dựa trên một số thông tin thu được từ facebook của anh ta như:
1. Thường xuyên quảng cáo các bài viết, clip do Việt Tân sản xuất, thậm chí tích cực phản ảnh các bình luận trên fan page của RFA, trong đó thể hiện sự hằn học với người bình luận phán bác nội dung của đài này như thể chính anh ta bị xúc phạm.
 
2. Một số clip chia sẻ có vẻ như chính là sản phẩm do anh ta trực tiếp thực hiện và tham gia làm ra, tiêu biểu như clip anh ta phục vụ “ông chủ Chân Như” khi phóng viên gạo cội của RFA về Việt Nam “tác nghiệp” hay clip RFA phỏng vấn ông Đoàn Văn Vươn khi anh ta về thăm ông này. Rõ ràng nhất là clip phỏng vấn nhóm ký tên vào Hiến Chương 2015 do RFA thực hiện thì giọng nói rõ ràng của Nguyễn Đình Hà dù không lên mặt.
 



Xem các clip 

                                      
3. Một nghi vấn khác đăng sau sự kiện Hà đi “điều trần về tự do báo chí” do RFA và Việt tân tổ chức. Về nước, dù không có công ăn việc làm, dù trước đo phải đi bán trà đá vỉa hè, thì mẹ con Hà đột ngột đổi đời, khi chuyển nhà từ căn hộ tầng 2 chật chội ở khu phố cổ lên căn hộ đẳng cấp ở Time City trị giá nhiều tỷ đồng.
Theo như thông tin vỉa hè nhiều người từng cộng tác với RFA (ông Lê Diễn Đức, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh..) hoặc bị rò rỉ trên mạng, hầu hết đều có lương bổng hậu hĩnh. Nếu việc này là đúng, không khó để truy lùng từ thu nhập có dấu hiệu bất chính. Từ đó, cùng với biểu hiện nêu trên, công an có thể truy ra được. Với hành vi này, là luật gia chắc Nguyễn Đình Hà biết rõ anh ta có thể bị kết tội theo Điều 80 Bộ luật Hình sự về hành vi làm gián điệp, thu thập tư liệu chuyển cho nước ngoài sử dung chống Nhà nước.