2015/10/11

TOÀN VĂN THÔNG BÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ 12 BCH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XI


TTXVN trân trọng giới thiệu Toàn văn Thông báo Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dự bế mạc Hội nghị. Ảnh: Trí Dũng –TTXVN

Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, từ ngày 5 đến ngày 11/10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã họp Hội nghị lần thứ 12 để thảo luận, cho ý kiến về các vấn đề: Tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2015, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2016; về việc chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021; công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; và một số vấn đề quan trọng khác. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì, phát biểu khai mạc và bế mạc Hội nghị.

I- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và kết luận về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2015 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 với các nội dung chủ yếu sau:

1- Về bối cảnh và tình hình năm 2015

Năm 2015 là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và là năm có nhiều sự kiện trọng đại của đất nước. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Tranh chấp chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông ngày càng gay gắt. 

Kinh tế thế giới phục hồi chậm; giá dầu thô giảm mạnh, giá nhiều loại hàng hoá cơ bản tiếp tục giảm; việc giảm giá đồng nhân dân tệ, suy giảm tăng trưởng của một số nền kinh tế lớn, thiên tai, hạn hán, dịch bệnh... đã tác động tiêu cực đến kinh tế nước ta. Tuy nhiên, với sự nỗ lực, chủ động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân của cả hệ thống chính trị, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã có chuyển biến tích cực và đạt những kết quả quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực.

Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát khoảng 2%, thấp nhất trong 15 năm qua. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Sản xuất kinh doanh tiếp tục phục hồi, tăng trưởng kinh tế dự kiến đạt khoảng 6,5%, vượt kế hoạch đề ra. Các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng được đẩy mạnh và đạt một số kết quả tích cực bước đầu. 

Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ; an sinh xã hội được bảo đảm; phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; thực hiện tốt chính sách người có công. Tỉ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 4,5%. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu đạt một số kết quả bước đầu. Cải cách hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh có bước tiến mới. 

Phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm chỉ đạo. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, chủ quyền quốc gia được giữ vững; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả, nâng cao vị thế của Đảng ta, đất nước ta trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, kinh tế nước ta, nhất là khu vực kinh tế trong nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Cân đối ngân sách khó khăn, bội chi còn cao; nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn, nợ xấu còn lớn và xử lý nợ xấu còn nhiều khó khăn; doanh nghiệp trong nước và khu vực nông nghiệp, xuất khẩu nông sản đang rất khó khăn; nhập siêu tăng trở lại. 

Thể chế kinh tế thị trường chậm được hoàn thiện, còn nhiều hạn chế, các loại thị trường vận hành chưa thông suốt. Giải quyết việc làm còn nhiều khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực thấp; kết quả ứng dụng khoa học - công nghệ còn nhiều hạn chế. Tái cơ cấu trong các ngành, lĩnh vực còn chậm, tái cơ cấu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm, chưa đạt tiến độ đề ra. 

Xây dựng nông thôn mới còn nhiều khó khăn, nhất là về nguồn lực. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, một số nơi còn mang tính phong trào, chưa huy động được sự tham gia trực tiếp của người dân và nguồn lực xã hội hóa; tỉ lệ hộ nghèo và tái nghèo ở những nơi đặc biệt khó khăn và trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. 

Một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều mặt hạn chế, yếu kém về văn hóa, xã hội khắc phục còn chậm; đạo đức xã hội ở một bộ phận không nhỏ xuống cấp; tình trạng tham nhũng chưa được đẩy lùi. Hiệu quả quản lý và sử dụng tài nguyên còn thấp; ô nhiễm, suy thoái môi trường còn xảy ra ở nhiều nơi. 

Cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên nhiều lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu. Bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, đảo đang đứng trước những khó khăn, thách thức mới. Sự chuẩn bị để hội nhập sâu hơn sau khi ký các hiệp định thương mại (FTA, TPP…) của ta còn nhiều bất cập.

2- Về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu năm 2016

Năm 2016 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020. Hòa bình và hợp tác phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương sẽ gia tăng và quyết liệt. Xung đột vũ trang ở nhiều nơi trên thế giới tiếp tục và có thể gia tăng. 

Khu vực đồng Euro kinh tế phục hồi chậm; khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Trung Quốc theo nhiều dự báo tăng trưởng chậm lại. Tranh chấp chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn biến gay gắt, phức tạp. Trong nước có nhiều thuận lợi từ thành tựu đạt được nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. 

Việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA), kết thúc đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và hình thành Cộng đồng ASEAN sẽ mở ra cơ hội và không gian phát triển rộng lớn hơn, nhưng thách thức cũng lớn hơn, nhất là cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngay cả trên thị trường trong nước.

2.1- Mục tiêu tổng quát: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2015 đi liền với cải thiện chất lượng nền kinh tế và khắc phục các yếu kém. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. 

Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. 

Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng kỷ cương, kỷ luật hành chính và xã hội; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tạo sự chuyển biến rõ nét về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

2.2- Các chỉ tiêu chủ yếu: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,7%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỉ lệ nhập siêu dưới 5%; tỉ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP phấn đấu dưới 5%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 31% GDP; chỉ số tăng giá tiêu dùng (CPI) dưới 5%. Thực hiện các chỉ tiêu về việc làm, giảm tỉ lệ hộ nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường.

2.3- Nhiệm vụ, giải pháp

- Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nhất là khu vực kinh tế trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chủ động điều hành linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách khác. 

Điều hành lãi suất, tỉ giá, tăng trưởng tín dụng phù hợp. Tăng cường huy động, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu; quản lý tốt nhập khẩu; phát triển mạnh thị trường trong nước. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại.

- Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan tâm sửa đổi, bổ sung, ban hành mới đầy đủ các luật, pháp lệnh triển khai Hiến pháp năm 2013. 

Xây dựng, hoàn thiện thể chế công tác quản lý quy hoạch theo hướng tổng thể, đồng bộ, tích hợp, chú trọng cơ chế điều phối vùng để khai thác tối đa nguồn lực sẵn có. Đa dạng hóa, phát triển đồng bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động các loại thị trường, bảo đảm vận hành thông suốt và cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. 

Thực hiện cơ chế thị trường, nghiên cứu tách dịch vụ công ra khỏi quản lý nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa đối với cung cấp dịch vụ công, đổi mới hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; tăng cường thực thi pháp luật đi đôi với cải cách tư pháp. Triển khai thực hiện hiệu quả các Nghị quyết Trung ương khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo và phát triển khoa học - công nghệ.

Đẩy nhanh thực hiện Đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế và các đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả tái cơ cấu ngành nông nghiệp và tổ chức lại mô hình sản xuất nông nghiệp theo từng vùng, miền, sản phẩm gắn với xây dựng nông thôn mới, tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. 

Rà soát, bổ sung chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, và khởi sự doanh nghiệp. Hiện đại hóa, phát triển nhanh các dịch vụ có giá trị gia tăng cao.

Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao hiệu quả việc sắp xếp, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, các công ty nông, lâm nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn quan trọng; bán phần vốn nhà nước trong các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ theo cơ chế thị trường. 

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) hoạt động thực chất, an toàn, hiệu quả theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Tăng cường thanh tra, giám sát, xử lý đúng pháp luật các sai phạm; bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng thương mại.

- Về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016: Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quy định pháp luật về ngân sách nhà nước. Tăng cường quản lý, chống thất thu, nợ đọng thuế. Cơ cấu lại thu ngân sách, tăng mức huy động vào ngân sách từ GDP, hạn chế tối đa việc ban hành các chính sách mới làm giảm thu và chỉ ban hành chính sách làm tăng chi ngân sách khi thật sự cần thiết và có nguồn kinh phí bảo đảm. 

Quản lý chặt chẽ việc ứng trước dự toán và chi chuyển nguồn. Tăng cường kỷ luật tài chính, kiểm soát chặt chẽ chi ngân sách, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát cả trong chi thường xuyên và chi đầu tư; tiết kiệm và giảm tối đa kinh phí hội nghị, hội thảo, lễ hội, đi công tác nước ngoài. Tích cực cơ cấu lại chi ngân sách, bảo đảm tỉ lệ hợp lý giữa chi đầu tư, chi thường xuyên và chi trả nợ, theo hướng chi đầu tư tăng nhanh hơn. 

Tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch trong quản lý thu, chi ngân sách nhà nước. Phấn đấu giảm bội chi ngân sách nhà nước.

Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp quản lý nợ công; tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay, sử dụng vốn vay và trả nợ, nhất là đối với các khoản vay mới, vay có bảo lãnh của Chính phủ; tiếp tục cơ cấu lại các khoản vay theo hướng tăng tỉ trọng vay trung và dài hạn với lãi suất phù hợp để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng quan trọng, thiết yếu của đất nước; bảo đảm dư nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn quy định.

- Năm 2016 tập trung vốn đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành chất lượng các chương trình, dự án, công trình trọng điểm quốc gia, các công trình cấp thiết đang đầu tư dở dang; ưu tiên vốn đối ứng cho các dự án ODA quan trọng, xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản và thu hồi vốn ứng trước; phần còn lại mới bố trí vốn cho các dự án khởi công mới. 

Dành một phần thu từ bán vốn nhà nước tại doanh nghiệp cho đầu tư phát triển. Tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch bảo trì kết cấu hạ tầng gắn với đẩy mạnh phân cấp và xã hội hóa. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác kết cấu hạ tầng. Tăng cường kiểm toán, giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với tất cả các khâu trong quá trình đầu tư.

- Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI về chính sách xã hội. Làm tốt chính sách ưu đãi người có công. Triển khai các chương trình, chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo mới. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với giải quyết việc làm. 

Chủ động phòng, chống dịch bệnh; tập trung giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; đẩy mạnh thực hiện Luật Bảo hiểm y tế, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội. Tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. 

Phát triển dân số bền vững; quan tâm chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; làm tốt công tác gia đình, bà mẹ, trẻ em, thanh niên, bình đẳng giới, và công tác dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng. Đẩy mạnh các hoạt động thể dục thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao. Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.

- Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai. Đẩy nhanh tiến độ để sớm hoàn thành việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, hệ thống thông tin đất đai đồng bộ, hiện đại và bản đồ, hồ sơ địa chính hiện đại; tiếp tục điều tra cơ bản về tài nguyên, nhất là tài nguyên biển. 

Xây dựng, triển khai hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các chương trình mục tiêu về ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế; kiên trì đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia trong quản lý, sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công và một số con sông khác có lưu vực ở nước ngoài.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội, chấp hành luật pháp gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị. 

Chú trọng cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập hệ thống cổng thông tin, mạng hành chính điện tử 4 cấp, khẩn trương xây dựng Chính phủ điện tử. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Xử lý kiên quyết không để hình thành các tổ chức hoạt động trái pháp luật. Bảo vệ tuyệt đối an toàn Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. 

Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Kết hợp hiệu quả giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện hiệu quả các giải pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, giảm thiểu tai nạn và ùn tắc giao thông.

Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương, ngoại giao nhân dân. Tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển, đảo. Tăng cường và nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại; làm tốt công tác người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là những người có công. 

Hoàn thiện pháp luật, chủ động có giải pháp cụ thể thực hiện và chuẩn bị thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ Cộng đồng ASEAN và các Hiệp định thương mại tự do (FTA), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Chương trình hành động triển khai 17 mục tiêu và 169 chỉ tiêu Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc vừa mới thông qua.

- Tăng cường quản lý nhà nước về thông tin truyền thông; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân theo quy định pháp luật; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin. Chủ động cung cấp thông tin về tình hình kinh tế - xã hội, chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách, pháp luật, những vấn đề dư luận xã hội quan tâm và cung cấp những thông tin cần thiết phục vụ sự lãnh đạo và quản lý điều hành của Đảng, Nhà nước. 

Tập trung tuyên truyền về Đại hội XII của Đảng. Đấu tranh, phản bác kịp thời, có tính thuyết phục cao đối với những thông tin sai trái. Tạo đồng thuận cao trong xã hội.

Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương, báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, chỉ đạo hoàn chỉnh, ban hành Kết luận.

Trên cơ sở Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ hoàn thiện các báo cáo trình Quốc hội xem xét, quyết định. Trong quá trình Quốc hội thảo luận, nếu có vấn đề quan trọng còn có ý kiến khác nhau, Đảng đoàn Quốc hội báo cáo, xin ý kiến Bộ Chính trị.

II- Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua một số chủ trương về việc chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 về Hội đồng bầu cử quốc gia, thời gian bầu cử, tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu đại biểu.

Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh: Để bảo đảm tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội kh óa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 ; bảo đảm giới thiệu, lựa chọn bầu ra những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thật sự tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân; cần phát huy cao độ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp uỷ đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; sự hưởng ứng, tích cực tham gia, phát huy đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân của cử tri cả nước.

Trong chuẩn bị và tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội kh óa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 bảo đảm đúng tiêu chuẩn, đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý, trong đó lấy tiêu chuẩn chất lượng đại biểu là ưu tiên hàng đầu; đồng thời phải quán triệt thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng về bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương; gắn kết quả nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và quy hoạch cán bộ với công tác chuẩn bị nhân sự đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Trung ương, báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội hoàn chỉnh Đề án bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 để tổ chức thực hiện; lãnh đạo công tác chuẩn bị và tổ chức thành công bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

III- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, tán thành Tờ trình của Bộ Chính trị về tình hình, kết quả giới thiệu nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII và Báo cáo của Bộ Chính trị về công tác chuẩn bị nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt từ Đại hội VI đến trước Đại hội XII và đề xuất một số vấn đề trong việc chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt khóa XII từ nay đến Hội nghị Trung ương 14 khóa XI.

Ban Chấp hành Trung ương biểu quyết thông qua danh sách giới thiệu lần đầu các đồng chí ứng cử viên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương (chính thức và dự khuyết) khóa XII.

Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị và Tiểu ban Nhân sự Đại hội XII, căn cứ ý kiến của Trung ương, báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, để tiếp tục xem xét, hoàn thiện các phương án nhân sự theo đúng Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã được Ban Chấp hành Trung ương thông qua và Quy trình công tác nhân sự để báo cáo Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định tại các hội nghị Trung ương khóa XI tiếp theo.

IV- Bộ Chính trị đã báo cáo Ban Chấp hành Trung ương các công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ Hội nghị lần thứ 11 đến Hội nghị lần thứ 12 và một số vấn đề quan trọng khác. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị tiếp thu ý kiến góp ý của các đồng chí Trung ương để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

V- Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tăng cường đoàn kết, thống nhất tư tưởng và hành động, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; tổ chức thành công đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2015 - 2020, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

TTXVN/Tin Tức

2015/07/16

HÃY DÂNG 2 QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA CHO TRUNG QUỐC: LUẬN ĐIỆU BÁN NƯỚC CỦA KẺ MANG DANH "BÁC XÍ" HUỲNH PHƯỚC SANG

“Chúng ta nên giao Hoàng Sa, Trường Sa đứt cho Trung Quốc hay chí ít cũng là Hoàng Sa”, đây là đoạn mở đầu trong bài viết của tên Hán nô mang danh nghĩa “bác sĩ” Huỳnh Phước Sang trên facebook. Những lời trên chắc chắn không bao giờ được nói ra bởi một con người mang dòng máu, da vàng Việt Nam chân chính nhưng nó lại được thốt lên bơi một tên bán nước núp bóng dưới màu áo blue “bác sĩ” để làm “một con sâu làm đục nồi canh”, vấy bẩn đi cái nghề cứu người đầy cao quý này. 
Chân dung "bác xí" Huỳnh Phước Sang (Nguồn: Internet)

Kinh tởm hơn, vâng, tác giả phải dùng từ này mới có thể lột tả được hết cách nói, cách viết của kẻ mang danh, đội lốt “bác sĩ” nhưng đem một phần máu thịt của đất nước để sẵn sàng hiến dâng cho láng giềng!!! Mặt y còn dày hơn khi sử dụng lý lẽ bắt trợn để quy kết dân tộc Việt Nam “bội ước” và việc dâng 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho TQ là điều hết sức “bình thường” và “phải phép”. Bán nước là đây, chứ ở đâu nữa! Mang danh có ăn, có học như phát ngôn như thằng vô học!

Thứ nhất, theo luận điệu đầy đê tiện, không có não của Huỳnh Phước Sang:
“Không xét lại lịch sử đúng hay sai, chỉ biết rằng thế giới đều biết một sự thật là Trung Quốc giúp Việt Nam trong chiến tranh và giành chiến thắng! Chưa kể đến những công hàm xác nhận thì việc VN phải đền đáp TQ cho việc mình nhờ cậy là bình thường và phải phép”.
Với luận điệu nực cười này của Huỳnh Phước Sang, xin thưa rằng:

Không biết ngài “bác sĩ” này có ăn, có học, được đầu tư đến nơi đến chốn nhưng phát biểu ngu không bằng mấy em “chân dài mà não ngắn” như Ngọc Trinh! Rõ ràng, thông tin minh bạch từ trước tới này, Việt Nam trải qua 2 cuộc chiến tranh trường kỳ kháng chiến là chống Thực dân Pháp (1858-1945 và 1945-1954) và Đế Quốc Mỹ (1954-1975) với bao hy sinh, mất mát cả về vật chất lẫn tinh thần, không có gì đong đếm được. Ngày 2/9/1945 trên Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ruộng đất cày về tay nông dân, xóa nhòa khoảng cách giữa các tầng lớp, giai cấp, không còn tồn tại sự áp bức, bóc lột trong nền thể chế tiến lên Chủ nghĩa Xã hội mà cả dân tộc VN đã chọn lựa. 

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trên thế giới hình thành 2 cực đối đầu nhau: Chủ nghĩa Xã hội (Liên Xô đứng đầu) và Tư bản chủ nghĩa (Mỹ đứng đầu). Mặc dù không được công khai nhưng cả hai cực đều ra sức củng cố lực lượng của mình, sản xuất các vũ khí hiện đại…sau này, người ta gọi đó là thời kỳ chiến tranh lạnh giữa 2 cường quốc lớn nhất thế giới, đứng đầu 2 cực XHCN và TBCN. 

Trung Quốc và VN đều là những nước theo con đường phát triển lên CNXH. Năm 1949, với sự độc lập hoàn toàn, khai sinh ra nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đánh dấu một sự phát triển, mở rộng phạm vi của cực XHCN trên toàn cầu. Việc các nước lớn, đàn anh như Liên Xô, các nước Đông Âu hay như Trung Quốc…quay trở lại giúp đất nước nhỏ bé nhưng luôn luôn có ngoại xâm về mặt vật chất cũng như tinh thần là lẽ đương nhiên. Há chẳng phải, đó là sự đoàn kết, giúp đỡ nhau của các nước đồng minh hay sao?

Đặc biệt, Trung Quốc là làng giềng của TQ, hầu hết các nguồn tiếp tế, viện trợ của các nước XHCN như Liên Xô, CuBa, các nước Đông Âu đều phải qua con đường đi qua TQ rồi mới vận chuyển vào Việt Nam. Cũng không phủ nhận công lao to lớn của TQ trong việc giúp đỡ VN về tiền bạc, thuốc men, thực phẩm và kể cả quân đội trong chiến tranh. Sau chiến tranh, VN cũng đã trả một số tiền tương đương với nguồn tiếp tế hồi chiến tranh mà TQ viện trợ. 

Nhưng, điều đáng nói ở đây là âm mưu của TQ khi cứ yêu cầu bên VN cho người của TQ sang đánh ngoại xâm giúp VN và đã bị phía lãnh đạo VN từ chối khéo léo ở con số có thể kiểm soát được. Nếu không, bây giờ, những loại người như Huỳnh Phước Sang không còn được nói tiếng của Mẹ đẻ nữa mà giờ đang sủa gâu gâu tiếng nước ngoài để cho “bình thường” và “phải phép”!

Chưa kể đến chuyện, TQ cũng là một trong những kẻ đứng đằng sau xúi giục các phần tử Pôn-Pôt sang xâm chiếm khu vực Tây Nam của Việt Nam rồi sau đó lợi dụng VN vừa mới vực dậy sau các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, TQ đã gây hấn, gây nên chiến tranh Biên giới 1979… Rồi thảm sát các chiến sĩ quân đội nhân dân VN tại đảo Gạc Ma 1988…

Không biết sự “bình thường” và “phải phép” của Huỳnh Phước Sang được trả bao nhiêu tiền mà cũng tự tin để sủa như vậy?

Thứ hai, về luận điệu của một kẻ “não phẳng”, “ngu còn tỏ ran guy hiểm” mang tên Huỳnh Phước Sang:
“Vậy tại sao chúng ta không hy sinh đi một tài sản trước mắt để bù lại có được sự nể trọng của toàn thế giới này, có được hình ảnh một dân tộc trọng chữ Tín, điều đó tôi cho là lợi ích to lớn nghìn năm, lớn hơn nhiều so với mấy cái bãi san hô lìu tìu đó”.
Về luận điệu hết sức ngớ ngẩn của tên “Hán nô” Huỳnh Phước Sang, xin thưa rằng:

Theo Huỳnh Phước Sang, sự “nể trọng” của toàn thế giới này dành cho VN là VN phải “hy sinh đi một tài sản trước mắt” để vừa có được sự “nể trọng” và có được “chữ tín” – những thứ to, hoành tráng hơn nhiều so với “cái bãi san hô lìu tìu”. Đọc đến đây, xin lỗi độc giả, tác giả phải đi súc miệng bằng nước muối rồi mới có thể gõ tiếp những dòng sau để lôi cái kẻ chuyên đi phô trương nhưng não nó làm bằng con chip điện tử, khi cần thì sủa và đôi khi mạch chập cheng, nó sủa loạn. 

Bãi san hô “lìu tìu” hay không có bãi san hô hoặc không có một chút giá trị vật chất gì đi chăng nữa thì đó cũng là một phần máu thịt của Tổ Quốc. Còn với “bác xí” Huỳnh Phước Sang muốn được sự “nể trọng” hay giữ chữ “tín” thì hãy đi dâng mạng sống đáng già vài ngàn bạc lẻ của y ra biển Đông để nếm mùi vị của sự “nể trọng” toàn thế giới. Nói như kẻ não ngắn Huỳnh Phước Sang thì y hãy vì sự “nể trọng” và chữ “tín”, hãy cắt một số bộ phận cơ thể của mình như tay, chân…cho người khác để được sự “nể trọng”? 

Tóm lại, theo luận điệu não phẳng của “bác xí” Huỳnh Phước Sang rằng thì là mà thằng hàng xóm bảo Huỳnh Phước Sang rằng: Tao thích con vợ mày, mày hãy dâng vợ mình cho tao vì hồi xưa tao cho mày tiền, cho đồ đạc để xây nhà. Vậy thì kẻ điên khùng như Huỳnh Phước Sang cũng vì lẽ “bình thường” và “phải phép”, đặc biệt là được sự “nể trọng”, giữ chữ “tín” trên “toàn thế giới” sẽ dâng vợ mình, hoàn toàn thuộc quyền sở hữu thằng hàng xóm? 

Rồi một mai, thằng hàng xóm chán vợ Huỳnh Phước Sang, sang nhà y này để đòi những thứ khác thì với lối suy nghĩ quái đản như Huỳnh Phước Sang vẫn cứ tiếp tục dâng hiến mọi thứ cho thằng hàng xóm vì đó là “điều bình thường” và “phải phép”? Đến một khi mà ngay cả thân xác Huỳnh Phước Sang cũng dâng không luôn cho thằng hàng xóm để nhận được sự “nể trọng” của “toàn thế giới” ấy chứ? 

Bài viết não phẳng này đăng lên facebook được vài tiếng đồng hồ đã bị cộng đồng mạng "ném đá" tơi bời, chửi rủa kẻ bán nước Huỳnh Phước Sang không thiếu lý lẽ gì. Bài viết chỉ tồn tại mấy tiếng đồng hồ rồi bị chính chủ nhân điên khùng xóa bài viết nhưng nó đã được cư dân mạng nhanh chóng share lại để chỉ rõ đích danh, bộ mặt của kẻ bán nước mang tên Huỳnh Phước Sang! Bị cộng đồng "ném đá" mạnh quá đến nỗi y cũng phải đóng cửa facebook của chính y.

Rõ là kẻ điên khùng, não ngắn được ngụy trang khéo léo dưới lớp son phấn của nghề nghiệp “bác xí” mang tên Huỳnh Phước Sang!
An Chiến

HÃY DÂNG 2 QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA CHO TRUNG QUỐC: LUẬN ĐIỆU BÁN NƯỚC CỦA KẺ MANG DANH "BÁC XÍ" HUỲNH PHƯỚC SANG

“Chúng ta nên giao Hoàng Sa, Trường Sa đứt cho Trung Quốc hay chí ít cũng là Hoàng Sa”, đây là đoạn mở đầu trong bài viết của tên Hán nô mang danh nghĩa “bác sĩ” Huỳnh Phước Sang trên facebook. Những lời trên chắc chắn không bao giờ được nói ra bởi một con người mang dòng máu, da vàng Việt Nam chân chính nhưng nó lại được thốt lên bơi một tên bán nước núp bóng dưới màu áo blue “bác sĩ” để làm “một con sâu làm đục nồi canh”, vấy bẩn đi cái nghề cứu người đầy cao quý này. 
Chân dung "bác xí" Huỳnh Phước Sang (Nguồn: Internet)

Kinh tởm hơn, vâng, tác giả phải dùng từ này mới có thể lột tả được hết cách nói, cách viết của kẻ mang danh, đội lốt “bác sĩ” nhưng đem một phần máu thịt của đất nước để sẵn sàng hiến dâng cho láng giềng!!! Mặt y còn dày hơn khi sử dụng lý lẽ bắt trợn để quy kết dân tộc Việt Nam “bội ước” và việc dâng 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho TQ là điều hết sức “bình thường” và “phải phép”. Bán nước là đây, chứ ở đâu nữa! Mang danh có ăn, có học như phát ngôn như thằng vô học!

Thứ nhất, theo luận điệu đầy đê tiện, không có não của Huỳnh Phước Sang:
“Không xét lại lịch sử đúng hay sai, chỉ biết rằng thế giới đều biết một sự thật là Trung Quốc giúp Việt Nam trong chiến tranh và giành chiến thắng! Chưa kể đến những công hàm xác nhận thì việc VN phải đền đáp TQ cho việc mình nhờ cậy là bình thường và phải phép”.
Với luận điệu nực cười này của Huỳnh Phước Sang, xin thưa rằng:

Không biết ngài “bác sĩ” này có ăn, có học, được đầu tư đến nơi đến chốn nhưng phát biểu ngu không bằng mấy em “chân dài mà não ngắn” như Ngọc Trinh! Rõ ràng, thông tin minh bạch từ trước tới này, Việt Nam trải qua 2 cuộc chiến tranh trường kỳ kháng chiến là chống Thực dân Pháp (1858-1945 và 1945-1954) và Đế Quốc Mỹ (1954-1975) với bao hy sinh, mất mát cả về vật chất lẫn tinh thần, không có gì đong đếm được. Ngày 2/9/1945 trên Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ruộng đất cày về tay nông dân, xóa nhòa khoảng cách giữa các tầng lớp, giai cấp, không còn tồn tại sự áp bức, bóc lột trong nền thể chế tiến lên Chủ nghĩa Xã hội mà cả dân tộc VN đã chọn lựa. 

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trên thế giới hình thành 2 cực đối đầu nhau: Chủ nghĩa Xã hội (Liên Xô đứng đầu) và Tư bản chủ nghĩa (Mỹ đứng đầu). Mặc dù không được công khai nhưng cả hai cực đều ra sức củng cố lực lượng của mình, sản xuất các vũ khí hiện đại…sau này, người ta gọi đó là thời kỳ chiến tranh lạnh giữa 2 cường quốc lớn nhất thế giới, đứng đầu 2 cực XHCN và TBCN. 

Trung Quốc và VN đều là những nước theo con đường phát triển lên CNXH. Năm 1949, với sự độc lập hoàn toàn, khai sinh ra nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đánh dấu một sự phát triển, mở rộng phạm vi của cực XHCN trên toàn cầu. Việc các nước lớn, đàn anh như Liên Xô, các nước Đông Âu hay như Trung Quốc…quay trở lại giúp đất nước nhỏ bé nhưng luôn luôn có ngoại xâm về mặt vật chất cũng như tinh thần là lẽ đương nhiên. Há chẳng phải, đó là sự đoàn kết, giúp đỡ nhau của các nước đồng minh hay sao?

Đặc biệt, Trung Quốc là làng giềng của TQ, hầu hết các nguồn tiếp tế, viện trợ của các nước XHCN như Liên Xô, CuBa, các nước Đông Âu đều phải qua con đường đi qua TQ rồi mới vận chuyển vào Việt Nam. Cũng không phủ nhận công lao to lớn của TQ trong việc giúp đỡ VN về tiền bạc, thuốc men, thực phẩm và kể cả quân đội trong chiến tranh. Sau chiến tranh, VN cũng đã trả một số tiền tương đương với nguồn tiếp tế hồi chiến tranh mà TQ viện trợ. 

Nhưng, điều đáng nói ở đây là âm mưu của TQ khi cứ yêu cầu bên VN cho người của TQ sang đánh ngoại xâm giúp VN và đã bị phía lãnh đạo VN từ chối khéo léo ở con số có thể kiểm soát được. Nếu không, bây giờ, những loại người như Huỳnh Phước Sang không còn được nói tiếng của Mẹ đẻ nữa mà giờ đang sủa gâu gâu tiếng nước ngoài để cho “bình thường” và “phải phép”!

Chưa kể đến chuyện, TQ cũng là một trong những kẻ đứng đằng sau xúi giục các phần tử Pôn-Pôt sang xâm chiếm khu vực Tây Nam của Việt Nam rồi sau đó lợi dụng VN vừa mới vực dậy sau các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, TQ đã gây hấn, gây nên chiến tranh Biên giới 1979… Rồi thảm sát các chiến sĩ quân đội nhân dân VN tại đảo Gạc Ma 1988…

Không biết sự “bình thường” và “phải phép” của Huỳnh Phước Sang được trả bao nhiêu tiền mà cũng tự tin để sủa như vậy?

Thứ hai, về luận điệu của một kẻ “não phẳng”, “ngu còn tỏ ran guy hiểm” mang tên Huỳnh Phước Sang:
“Vậy tại sao chúng ta không hy sinh đi một tài sản trước mắt để bù lại có được sự nể trọng của toàn thế giới này, có được hình ảnh một dân tộc trọng chữ Tín, điều đó tôi cho là lợi ích to lớn nghìn năm, lớn hơn nhiều so với mấy cái bãi san hô lìu tìu đó”.
Về luận điệu hết sức ngớ ngẩn của tên “Hán nô” Huỳnh Phước Sang, xin thưa rằng:

Theo Huỳnh Phước Sang, sự “nể trọng” của toàn thế giới này dành cho VN là VN phải “hy sinh đi một tài sản trước mắt” để vừa có được sự “nể trọng” và có được “chữ tín” – những thứ to, hoành tráng hơn nhiều so với “cái bãi san hô lìu tìu”. Đọc đến đây, xin lỗi độc giả, tác giả phải đi súc miệng bằng nước muối rồi mới có thể gõ tiếp những dòng sau để lôi cái kẻ chuyên đi phô trương nhưng não nó làm bằng con chip điện tử, khi cần thì sủa và đôi khi mạch chập cheng, nó sủa loạn. 

Bãi san hô “lìu tìu” hay không có bãi san hô hoặc không có một chút giá trị vật chất gì đi chăng nữa thì đó cũng là một phần máu thịt của Tổ Quốc. Còn với “bác xí” Huỳnh Phước Sang muốn được sự “nể trọng” hay giữ chữ “tín” thì hãy đi dâng mạng sống đáng già vài ngàn bạc lẻ của y ra biển Đông để nếm mùi vị của sự “nể trọng” toàn thế giới. Nói như kẻ não ngắn Huỳnh Phước Sang thì y hãy vì sự “nể trọng” và chữ “tín”, hãy cắt một số bộ phận cơ thể của mình như tay, chân…cho người khác để được sự “nể trọng”? 

Tóm lại, theo luận điệu não phẳng của “bác xí” Huỳnh Phước Sang rằng thì là mà thằng hàng xóm bảo Huỳnh Phước Sang rằng: Tao thích con vợ mày, mày hãy dâng vợ mình cho tao vì hồi xưa tao cho mày tiền, cho đồ đạc để xây nhà. Vậy thì kẻ điên khùng như Huỳnh Phước Sang cũng vì lẽ “bình thường” và “phải phép”, đặc biệt là được sự “nể trọng”, giữ chữ “tín” trên “toàn thế giới” sẽ dâng vợ mình, hoàn toàn thuộc quyền sở hữu thằng hàng xóm? 

Rồi một mai, thằng hàng xóm chán vợ Huỳnh Phước Sang, sang nhà y này để đòi những thứ khác thì với lối suy nghĩ quái đản như Huỳnh Phước Sang vẫn cứ tiếp tục dâng hiến mọi thứ cho thằng hàng xóm vì đó là “điều bình thường” và “phải phép”? Đến một khi mà ngay cả thân xác Huỳnh Phước Sang cũng dâng không luôn cho thằng hàng xóm để nhận được sự “nể trọng” của “toàn thế giới” ấy chứ? 

Bài viết não phẳng này đăng lên facebook được vài tiếng đồng hồ đã bị cộng đồng mạng "ném đá" tơi bời, chửi rủa kẻ bán nước Huỳnh Phước Sang không thiếu lý lẽ gì. Bài viết chỉ tồn tại mấy tiếng đồng hồ rồi bị chính chủ nhân điên khùng xóa bài viết nhưng nó đã được cư dân mạng nhanh chóng share lại để chỉ rõ đích danh, bộ mặt của kẻ bán nước mang tên Huỳnh Phước Sang! Bị cộng đồng "ném đá" mạnh quá đến nỗi y cũng phải đóng cửa facebook của chính y.

Rõ là kẻ điên khùng, não ngắn được ngụy trang khéo léo dưới lớp son phấn của nghề nghiệp “bác xí” mang tên Huỳnh Phước Sang!
An Chiến

2015/06/27

Nhà Thờ Đang Thay Đổi Diện Mạo.

Nguyễn Trí Cảm
LTS: Cách đây gần 10 tháng, cómột bài phản hồi (của Lý Thái Xuân) đáp lại bài của một con chiên bị cơn bệnh Alexandre De Rhodes, "cấm" Phật tử hát trong chùa, "cấm" Phật tử làm lễ cưới trong chùa, cho rằng những việc đó là "độc quyền" của nhóm Công Giáo tự xưng. Đọc thêm bài sau đây, ta có thể kết luận không sợ sai: Đúng là những con chiên! họ không bao giờ có thể nhìn lại sau lưng của chính họ, chỉ có thể nhìn trước mặt, nhìn "cái đàng sau" của con chiên khác mà thôi!
các con chiên
Gia tô giáo hay còn được thậm xưng là Công giáo có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 16 khi các nhà truyền giáo châu Âu sang truyền đạo. Trải qua nhiều thăng trầm trong dòng lịch sử. Theo số liệu năm 2011 của Tổng cục Thống kê, dân số của Việt Nam hiện khoảng 87,8 triệu người , đạo Công giáo tại Việt Nam có khoảng 6 triệu tín đồ (chiếm 6,95%) trong tổng số dân 87.8 triệu dân. Đây được xem là tỷ lệ cao nhất. Mặc dù qua nhiều thời kỳ đạo Công giáo được thực dân Pháp cũng như của các chính quyền Công giáo ở Miền nam trước đây tạo mọi thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc truyền giáo, nhưng sự phát triển vẫn quanh quẩn ở tỷ lệ 6-7 % này. Tỷ lệ này chủ yếu giữ được là do tiếp nối theo truyền thống gia đình và một số tân tòng cải đạo thông qua hôn nhân.
Tại sao đạo Công giáo dù được chính quyền thực dân và chế độ Sài gòn trước đây ưu ái, được cấp những khu đất vàng trong các đô thị khắp nước để xây nhà thờ, chủng viện, được các hội đoàn, tổ chức Thiên chúa giáo thế giới tài trợ, giúp đỡ về vật chất, tiền bạc để đẩy mạnh công cuộc truyền giáo, cải đạo qua nhiều hình thức mà chủ yếu là dùng quyền lực và  lợi lạc vật chất để chiêu dụ. Ngoài ra, trước đây, các chính quyền Công giáo, nhất là chế độ dưới thời Ngô Đình Diệm, thông qua đảng Cần lao Công Giáo, dùng biện pháp như mua chuộc, ép buộc, hãm hại, khủng bố người không theo đạo để buộc họ phải cải đạo mà vẫn không thành công, là vì họ vấp phải thành trì văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Trước Công đồng Vaticano năm 1960, người theo đạo không được thờ cúng ông bà, tổ tiên hay ngẫu tượng hay ăn đồ cúng. Cụ Đồ Chiểu cũng từng thốt lên: “Thà đui mà giữ đạo nhà/còn hơn có mắt ông cha  không thờ” cũng là để phản ảnh sự chối bỏ đạo lý thờ cúng tổ tiên của người theo đạo. Tuy nhiên, tập tục này hiện nay vẫn còn tồn tại trong một số gia đình Công giáo.
Đó là vấn đề làm cho đạo Công giáo trở nên xa lạ với nền văn hóa, phong tục tập quán của người Việt. Nhận thức được việc cấm đoán tập tục thờ cúng ông bà, tổ tiên của người châu Á nói chung, và Việt Nam nói riêng cũng như những hình ảnh từ Chúa đến thánh thần đều đậm nét phương Tây, xa lạ với hình ảnh người Á đông, không gây được thiện cảm, gần gũi và làm cho việc truyền giáo không hiệu so với thời gian.
nhà thờ La vangnhà thờ Huyện Sĩnhà thờ Hố NaiNhà thờ chính tòa Xuân Lộc
Các nóc nhà thờ từ xưa nay đều nhọn hoắc:
nhà thờ La vang (1886 - 1972), nhà thờ Huyện Sĩ (1905), nhà thờ Hố Nai (1954), Nhà thờ chính tòa Xuân Lộc (1966)
...
Để tồn tại và phát triển, Công đồng Vaticano 1960 đành phải thay đổi để hòa nhập vào tập tục truyền thống bản địa, cho phép thể hiện sự tôn kính ông bà, tổ tiên qua hình thức thắp hương, lễ lạy nhưng không được thờ ai khác ngoài Thiên chúa. Để giải quyết những vấn nạn gây cản trở việc truyền giáo, Giáo hội Công giáo Việt Nam còn đi xa hơn ngoài việc “cho phép” thờ cúng ông bà và thắp hương, Giáo hội còn tìm cách làm cho hình ảnh của đạo Công giáo hòa nhập vào nền văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt trong nhiều lãnh vực tiêu biểu nhất.
Về kiến trúc, một số nhà thờ bắt đầu có khuynh hướng xây dựng có kiến trúc trông rất giống chùa chiền. Nhà thờ Phát Diệm chỉ là biểu tượng chung về hình thức xây dựng giống chùa trong quá khứ. Trên thực tế, hiện nay có khá nhiều nhà thờ mới được xây dựng cũng xây cổng tam quan, cũng rồng chầu và mái ngói đầu đao hình rồng, phượng. Độc giả có thể xem hình ảnh “rồng chầu” của nhà thờ Du Sinh, Đà Lạt giống như lăng tẩm vua chúa Triều Nguyễn ở Huế.
-v/s-
Nhà thờ Du Sinh, Đà Lạt  -v/s- Lăng Gia Long, Huế
Nhà thờ Phát Diệm là một kiểu mẫu điển hình mang hình dáng kiến trúc chùa được xây dựng từ 1875 đến 1898 tại  Ninh Bình và ở đầu thế kỷ 21 này, nhà thờ La Vang, Quảng Trị, “thánh địa” của người Công giáo, một ngôi nhà thờ đang được xây dựng, mà thoạt nhìn, làm ta lầm tưởng là chùa Lá Vằng đã được GH Công Giáo trả lại cho GH Phật giáo Quảng Trị, và chùa đang được phục dựng tại đây! Vừa mới đây, ông Tổng giám mục Leopoldo Girelli, đại diện không thường trú của Toà Thánh Vatican tại Việt Nam, đã đến thăm công trình xây dựng Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ La Vang này vào ngày 25/10/2015 (1).
Nhà thờ Phát Diệm  Cổng nhà thờ La Vang mới Nhà thờ giáo xứ Yên Lý, Vinh
Nhà thờ Phát Diệm (1898), (xem "Bí Mật Nhà Thờ Phát Diệm")
Cổng nhà thờ La Vang mới (2012) - Nhà thờ giáo xứ Yên Lý, Vinh (2005)
Sở dĩ có sự rập khuôn này, chỉ vì GHCG muốn tạo nên hình ảnh gần gủi với người dân Việt. Chùa không phải chỉ là nơi tâm linh, thờ phượng mà còn đóng vai trò luân lý và đạo đức xã hội, và chùa gần như hiện hữu trong từng làng xã của người Việt. Tục ngữ cũng thể hiện “đất vua, chùa làng..” hình ảnh mái chùa đã ăn sâu vào tâm hồn người Việt cả mấy ngàn năm. Tuy vay mượn kiến trúc Phật giáo nhưng họ lại bất chấp ý nghĩa tôn giáo mà kiến trúc đó thể hiện. Ví dụ, cổng tam quan của một ngôi chùa, ba cửa này tượng trưng cho tam pháp ấn của nhà Phật là vô thường, vô ngã và không (hay khổ). Hình ảnh rồng là một linh vật  thân quen của người Việt, thường xuất hiện trong nhiều lễ hội dân gian, trong kiến trúc chùa chiền, trong vương triều nhưng trong Kinh thánh, rồng biểu tượng cho cái ác, sự dữ..
Ngoài ra, tu sĩ hay giáo dân cũng thắp hương trong các buổi lễ trong nhà thờ, thắp hương trước các tượng đặt ngoài trời cũng như thắp hương trước bàn thờ gia tiên để thể hiện người theo đạo cũng không khác với các tôn giáo, tín ngưỡng khác tại Việt Nam trong nghi thức truyền thống thờ phượng của dân tộc.
Các linh mục cũng thắp nhang 
Các linh mục, phụ tế thắp hương.. và các con chiên trang phục cổ truyền… cũng thắp hương..
Riêng hình ảnh của Chúa Giê-su hay bà Maria cũng vậy, để tạo hình ảnh thân quen, gần gủi với văn hóa Việt, bớt đậm nét phươngTây, họ khoát lên hình ảnh mà chỉ riêng đất nước Việt Nam mới có, đó là áo dài và nón lá. Có rất nhiều hình ảnh bà Maria mặc áo dài, đội nón lá hay khăn đóng trông không khác gì tranh cổ động du lịch ở Việt Nam.
 -v/s- 
Bà Maria với chiếc nón lá  -v/s- Tranh cổ động du lịch Việt Nam.
Vừa mới đây Ban Mục Đối Thoại Vụ Liên Tôn TGP TP.HCM  vừa xuất bản lịch để bàn năm 2016 với hình Chúa Giê-su mặc áo cà sa .. ngồi thiền. Một số giáo dân phản ứng (2) vì sự bắt chước hình ảnh của Phật giáo dưới nhiều hình thức quá lộ liễu. Họ đã từng được dạy Công giáo là tôn giáo văn minh, tiến bộ nhưng nay lại vay mượn hình ảnh của một tôn giáo khác. Có lẽ họ quên rằng những chức sắc của một Tổng giáo phận lớn là tp.HCM không phải là những người đưa ra những chủ trương hay hành động mà thiếu sự cân nhắc, tính toán.
 -v/s- http://www.phattuvietnam.net/images/albumanh/1107/tt12.jpg
Nói chung, đây chỉ là những sự chuyển đổi điển hình từ hình ảnh của một tôn giáo từng gắn bó, thăng trầm với vận mệnh của các thế lực ngoại bang sang hình ảnh của một tôn giáo đồng hành cùng dân tộc. Mục đích của những nổ lực này không phải là chờ đón một hiệu quả cải đạo tức thời, mà là một cuộc thâm nhập lâu dài “mưa dầm thấm lâu”, mà những thế hệ mai sau không còn biết đến một lịch sử truyền đạo gây nhiều tổn thương cho đất nước của họ. Hình ảnh gần gủi với một đạo Phật, một tôn giáo đã gắn liền với lịch sử đấu tranh của dân tộc dần bị lập lờ đánh lận bởi hình ảnh “như nhau”, “tôn giáo nào cũng tốt” cũng thờ cúng tổ tiên, cũng thắp hương, cũng thiền định, cũng “mái chùa che chở hồn dân tộc” (thơ Huyền Không) và thêm vào đó là nếp sống thực dụng đang dần trở nên phổ biến khi đất nước hội nhập sâu vào cộng đồng thế giới. Một tôn giáo dạy tín đồ ước nguyện trở thành “kẻ tôi tớ hèn mọn của Chúa”, “cầu xin ân sủng” mà lại muốn hình ảnh của mình tương đồng với một tôn giáo dạy ““Các ngươi hãy tự thắpđuốc lên mà đi” ” !
Sự thay đổi hình ảnh này sẽ tác động đến những người phi-kitô hơn là đối với giáo dân, vì con chiên thường được bảo hộ đức tin của mình từ thuở mới chào đời với những phép bí tích, thánh lễ, những lễ chủ nhật hàng tuần lập đi lập lại đã ăn sâu vào tâm thức, cũng như được bảo hộ từ hệ thống tổ chức. Não trạng họ hầu như khó thay đổi. Giáo dân thường sống khu biệt trong các giáo xứ, giáo họ nên bị áp lực tâm lý trong cộng đồng họ sống. Đơn cử, như tại các xóm đạo tại tp.Hcm, cứ mỗi mùa Giáng sinh là các ông trùm lại đến từng nhà để kêu gọi đóng góp cho việc làm hang đá, giăng đèn khắp xóm đạo, và khó có gia đình nào, dầu là khó khăn, lại “dám” từ chối  đóng góp cho “việc Chúa” này hoặc một giáo dân nào đó, vì lý do riêng tư, bỏ lễ ngày chủ nhật, thì hầu như việc bỏ lễ này cũng trở thành một câu chuyện trong  xóm đạo.
Với một tỷ lệ chưa đến 7 % dân số nhưng đã xảy ra khá nhiều vụ việc “đòi đất” bằng xà beng, gạch đá như ở Thái Hà, Tam Tòa, Đồng Chiêm, Cồn Dầu, Loan Lý v.v.. chưa kể nếu như những nhóm Tin Lành như Fulro, Dega, Hà Mòn, Mường Nhé, Công giáo ..liên kết với nhau để loại trừ các tôn giáo, tín ngưỡng khác, và khi Phật giáo chỉ chú trọng đến việc xây chùa to, Phật lớn, xa rời cái cốt tủy của đạo Phật, thiếu sự tỉnh thức trước nguy cơ cải đạo thì tính hộ quốc không còn. Như vậy, nguy cơ tiềm ẩn cho đất nước là rất cao.  Lúc đó, tổ quốc sẽ là  “cõi tạm”, “nước trời” sẽ là chốn vĩnh hằng, cả dân tộc sẽ là đàn chiên ngoan, hiến pháp sẽ đầy hơi hướm của Thánh kinh.
Một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu và gần tám mươi năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp nhưng dân tộc Việt Nam vẫn hi sinh xương máu để giành lại độc lập, tự do cho đất nước dù cho thời gian có là bao lâu, là vì bản sắc văn hóa dân tộc vẫn còn. Nếu như cả dân tộc chuyển sang thờ kính một ông thợ mộc người Do Thái, thì đây là một dạng xâm lược tâm linh, bản sắc dân tộc sẽ mất. Một đất nước đã mất đi văn hóa truyền thống, bản sắc của mình, thì sự mất nước chỉ còn là vấn đề của thời gian.
SG, 30-01-2016
Nguyễn Trí Cảm
____________________
Tham khảo:
  1. http://caunguyenbangtraitim.com/ hinh-anh-duc-tgm-leopoldo-girelli - tham-cong-trinh-xay-dung-vuong-cung-thanh-duong-duc-me-la-vang/
  2.  http://baoconggiao.com/vi/news/ Chuyen-Nha-Dao/ Sai-Gon-Nguoi-Cong-Giao-gian-du-vi-tuong-Chua-Gie-su-thanh-nha-Phat-7860/


Các bài cùng tác giả


▪ Công Cuộc Truyền Giáo Ở Bắc Kỳ Trong Thời Thuộc Địa Nguyễn Trí Cảm chuyển ngữ 

▪ Sự “thống hối” của Giáo hoàng -Nguyễn Trí Cảm chuyển ngữ 

▪ Xâm lược Châu Á: Giáo hoàng thúc dục mở mang nước Chúa BBC 

▪ Nghĩ Về Đạo Thiên Chúa và Các Lễ Hội Truyền Thống Việt Nam Nguyễn Trí Cảm 

▪ Anh Ba Láng Giềng Nguyễn Trí Cảm 

▪ Lại là thầy Thích Không Tánh -Nguyễn Trí Cảm 

▪ Tin lành, Thiên Chúa giáo có đơn thuần chỉ là tôn giáo ? - Nguyễn Trí Cảm 

▪ Vatican và "mùa gặt các linh hồn” -Nguyễn Trí Cảm 

▪ Hoa hồng ngày Vu lan Nguyễn Trí Cảm 

▪ Tin Tức Các Tu Sĩ TCG Lạm Dụng Tình Dục Nguyễn Trí Cảm 

▪ Xin giữ cho đạo Phật được trong sáng Nguyễn Trí Cảm 

▪ Susanna Maiolo - Người phụ nữ quay lưng lại với Đức Chúa Trời -Nguyễn Trí Cảm 

▪ Cải đạo bắt đầu từ trẻ con Nguyễn Trí Cảm 

▪ Tại Sao Chúa Trời Lại Để Cho Thảm Họa Thiên Nhiên Xảy Ra ? Nguyễn Trí Cảm 

▪ Ăn theo World Cup.. - Nguyễn Trí Cảm 

▪ Mode Chơi “Phạm Thánh” - Nguyễn Trí Cảm 

▪ Suy Nghĩ về Việc Thành Lập Uỷ Ban Công Lý và Hoà Bình Nguyễn Trí Cảm 

▪ Thời Mạt Đạo - Nguyễn Trí Cảm 

▪ Nơi Trồng Người Nguyễn Trí Cảm 

▪ Cuộc thánh chiến mới nhất của Giáo hoàng - Nguyễn Trí Cảm