2014/07/06

Đề Nghị Của Một Giáo Dân - Khi Đức Tin Bị Thử Thách Ta Phải Làm Gì? Nguyễn Trọng Nghĩa

Trong đời sống đức tin không ít lần đức tin chúng ta bị thử thách, chúng ta phải làm gì để tiến đến sự hoàn thiện về đức tin và hoàn thiện nhân cách bản thân?
Suy cho cùng đức tin là công cụ giúp chúng ta hướng đến chân – thiện – mỹ, hoàn thiện một con người tốt lành, nâng đỡ tinh thần của chúng ta trong cuộc sống còn nhiều khó khăn, bất trắc. Một điều chúng ta phải nghĩ và phải thay đổi đó là: Đức tin của chúng ta có cực đoan hay không và ta có cần thay đổi những điều chưa đúng trong đức tin truyền thống hay không?
Chúng ta là con người có trí khôn và cầu xin ơn khôn ngoan hằng ngày thì liệu chúng ta sẽ để ngoài tai hay nhắm mắt cho qua những tệ đoan trong tín ngưỡng, những điều chưa tốt trong giáo hội, những tín lý không còn phù hợp với những hiểu biết ngày càng sâu – rộng của loài người hay những nghiên cứu lịch sử chứng minh cái sai trong tín lý - lịch sử - khoa học – giáo dục…. và ngay cả giáo luật hay quan điểm của giáo hội địa phương trong các vấn đề truyền giáo hay chính trị.
Ngày nay đức tin chúng ta đứng trước các thử thách sau đây: Kinh thánh (xin không bàn về tân ước), giáo lý – giáo luật và tư tưởng cực đoan của giáo hội – giáo dân địa phương.
Đây là sách tôi đọc. Ngoài ra, trang chungnhanduckito.net cũng được xử dụng để tham khảo cựu ước.
I. KINH THÁNH:
Chúng ta thể hiện đức tin bằng cách đọc kinh tin kính hàng ngày và vì vậy việc chúng ta bám sát vào kinh thánh mà qua đó lời Chúa được thể hiện, và cũng qua đó nhiều câu hỏi buộc ta phải đi đến ngọn ngành được nhiều người khác tín ngưỡng hoặc không tín ngưỡng đặt ra. Tôi xin nêu một số “vấn đề” nhiều người đặt ra để thử thách đức tin chúng ta:
1. Sách Sáng thế:
Xin bắt đầu bằng đoạn đầu của kinh tin kính: “Tôi tin kính đức Chúa trời là cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất…”
Câu hỏi 1: Sách sáng thế ghi chép việc Chúa tạo dựng trời đất muôn vật trong 6 ngày. Chúng ta ghi nhận ngày đầu tiên Chúa đã tạo ra ánh sáng để tách biệt với bóng tối nhưng phải đến ngày thứ tư chúng ta mới nhận biết việc tạo dựng “…những vầng sáng để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm…. Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm…”. Vậy, theo kiến thức và nhận biết của chúng ta thì ánh sáng thì phải do mặt trời phát ra nhưng theo kinh thánh thì ánh sáng có trước và mặt trời có sau, chúng ta phải giải thích như thế nào?
Câu hỏi 2: Ở bốn ngày tạo dựng đầu tiên chúng ta luôn thấy câu “qua một buổi chiều và một buổi sáng đó là ngày thứ nhất, hai, ba, tư…” nhưng vấn đề là nếu mặt trời được tạo dựng ngày thứ tư thì sẽ không có buổi chiều và buổi sáng của những ngày đầu tiên này, chúng ta sẽ giải thích như thế nào?
Câu hỏi 3: Ngày thứ tư Chúa tạo các vầng sáng “…để làm dấu chỉ xác định các đại lễ…” nhưng lúc đó Chúa cũng chưa có ý nghĩ tạo dựng con người thì các đại lễ mà Chúa nói là những đại lễ gì? Vì theo sự dạy dỗ của giáo hội tất cả các đại lễ đều có lịch sử và ý nghĩa, trên hết thì các đại lễ đều xuất hiện sau quá trình tạo dựng, vậy việc tạo các vầng sáng để xác  định các đại lễ giống như là sẽ biết trước chắc chắn có các đại lễ. Điều này rõ ràng có gì đó chưa hợp lý?
Câu hỏi 4: Kinh thánh ghi nhận con rắn là do Chúa tạo ra chứ không phải theo cách lý giải của nhiều người rằng đó là hiện thân của Satan “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài  đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra…” Vậy cách lý giải rắn  là hiện thân của Satan không còn đúng khi chính kinh thánh khẳng định con rắn là do Chúa tạo ra, liệu chúng ta phải giải thích một cách rõ ràng hơn về con rắn?
Câu hỏi 5: Kinh thánh không ghi chép những sai phạm của Cain trong quá trình trồng trọt nhưng lại cho rằng Cain không  đẹp lòng Chúa nên Chúa không nhận của lễ của ông mà chỉ nhận của Aben. Điều này làm nhiều người có cảm xúc con thương – con ghét, vấn đề này làm cho có người nghĩ Chúa thích ngành chăn nuôi hơn trồng trọt hay sự yêu thương của Chúa theo cảm tính. Chúng ta phải giải thích điều này thế nào?
Câu hỏi 6: Đoạn đối thoại giữa Chúa và Cain sau khi Cain giết em cũng là một vấn đề: “…Giờ đây ngươi bị nguyền rủa….phiêu bạt trên mặt đất”. Cain thưa với Chúa: “Hình phạt ngài dành cho con quá nặng….. sẽ phải lang thang trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con”. Đức Chúa phán với ông: “không đâu! Bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp bảy." Chúng ta phải giải thích cụm từ “bất cứ ai” này như thế nào khi mà lúc đó chỉ có vợ chồng A Đam – E va và Cain? Nhiều người đặt nghi vấn rằng có nhiều dân tộc khác cũng sống xung quanh  đó nên Chúa và Cain mới cảm nhận được số đông mà dùng cụm từ “bất cứ ai”.
Câu hỏi 7: Cụm từ “bất cứ ai ở câu hỏi trên sẽ giải thích cho việc Cain lấy vợ rồi sinh con vì cho đến lúc này kinh thánh không nói hai vợ chồng tổ phụ có sinh thêm con hay không. Vì nếu hai vợ chồng tổ phụ chưa sinh thêm con gái thì việc Cain lấy vợ sẽ như thế nào khi cả thế giới lúc bấy giờ chỉ ghi nhận sự tồn tại của ba người. Vậy chỉ khi ta chấp nhận cụm từ “bất cứ ai” ở câu hỏi trên thì mới có thể lý giải việc lấy vợ của Cain, nhưng nếu như vậy thì ta lại vướng vào một câu hỏi khác là: Vợ của Cain là con gái thuộc một nguồn gốc khác ngoài hai ông bà tổ phụ?
Câu hỏi 8: Nếu ta chấp nhận cụm từ “bất cứ ai” để giải thích nguồn gốc vợ của Cain thì việc “Tội tổ tông” sẽ không ảnh hưởng đến phía nhà vợ của Cain vì đâu có cơ sở khẳng định nhà vợ Cain có “Tội tổ tông”?
Câu hỏi 9: Nếu ta chấp nhận cụm từ “bất cứ ai” ở trên thì ta sẽ phải chấp nhận sự tồn tại song song giữa gia đình Tổ phụ dân Do Thái và các tộc người khác xung quanh, và nếu như vậy thì Chúa không hẳn chỉ tạo ra con người là A Đam và Eva là tổ phụ dân Do Thái mà còn nhiều các dân tộc khác với các tổ phụ của những dân tộc đó. Vì thấy rằng có rất nhiều dân tộc xung quanh dân tộc Do Thái cũng có truyền thuyết tạo thiên lập địa và thờ nhiều thần khai tạo thế giới giống một phần hoặc khác với dân Do Thái. Chúng ta giải thích như thế nào về việc này?
Câu hỏi 10: Việc cưới vợ sinh con trong gia phả kể từ Cain được nghe nhiều phản biện và tìm hiểu về nguồn gốc của những bà vợ? Nếu chỉ có một tổ phụ thì việc cưới vợ sinh con trong mô tả của kinh thánh một cách chi tiết đến khớp về thời gian trưởng thành của những người con trai là không thể? Vì đoạn cuối chương 4 ghi như sau: Ông A Đam lại ăn ở với vợ bà sinh một con trai và đặt tên là Sết; bà nói: “Thiên Chúa đã sắp đặt cho tôi dòng dõi khác thay cho A ben, vì Cain đã giết nó” Ông Sết cũng sinh được một con trai và đặt tên là Ê nốt. Bấy giờ người ta bắt đầu kêu cầu danh Đức Chúa.Chúng ta thấy rất rõ là ông bà tổ phụ Do Thái không sinh thêm con gái, chỉ có 3 người con trai Cain, Aben đã chết và Sết; ông bà không sinh con gái (phải đến hơn tám trăm tuổi thì A Đam mới sinh thêm con trai và con gái) thì việc Cain lấy vợ - chấp nhận loạn luân cũng khó lý giải?
Trên thực tế kinh thánh cựu ước không được chấp nhận ở một số nơi vì những mâu thuẫn cơ bản này. Do khác biệt về ngôn ngữ, chữ viết nên chúng ta không biết nhiều về những tuyên bố từ bỏ kinh thánh cựu ước. Đã có nhiều cách lý giải kinh thánh cựu ước nhưng đa phần là gượng ép, tự bắt bản thân phải tin. Vì thế nên tới giờ những mâu thuẫn đặt ra ở trên luôn đòi hỏi có sự cải cách, chỉnh sửa từ kinh thánh đến cách giải thích. Khi giải thích kinh thánh nếu chủ quan không khéo người giải thích tự huyễn hoặc bản thân theo kiểu viết mới kinh thánh, hay viết – nói những điều ngoài kinh thánh, không đúng ý nghĩa nguyên bản của kinh thánh.
(đây là chi tiết của quyển sách mà tác giả tham khảo)
2. Những câu chuyện trong kinh thánh:
2.1. Chuyện No – ê chúc dữ con trai út Canaan vì việc nhìn thấy chỗ kín của cha và kháo láo với hai anh được nhiều đánh giá là không khoan dung và thiếu nhân đạo. Vì cũng vì việc này dòng họ Canaan luôn là nô lệ do sự nguyền rủa của cha mình và tính tham lam của người anh khi vẫn nhận em mình là nô lệ hay sự  nhân từ của Chúa khi chấp nhận lời nguyền chúc dữ của No – ê. Nói chung câu chuyện này không mang tính giáo dục cao về lòng dạ khoan dung hay khiêm nhường.
2.2. Sự việc tháp Babel khiến loài người phân tán khắp mặt đất với nhiều ngôn ngữ khác nhau khiến nhiều câu hỏi đặt ra về sự sợ hãi của Chúa trước sức mạnh của con người và sự đoàn kết của họ, có ý kiến cho rằng đó là sự đố kỵ của Chúa.
2.3. Sự tích Abraham có mấy vấn đề:
a. Yave phán với Abram: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất ta đã chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân tộc lớn, ta sẽ chúc lành cho ngươi, và ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành ngươi, ai mà nói động đến ta sẽ chúc dữ……”. Vấn đề đặt ra là: với quyền năng tạo thiên lập địa thì Chúa muốn vùng đất nào tốt, người nào tốt thì hẳn không cần phải bắt Abram rời khỏi quê hương của ông ấy. Riêng việc chúc lành chúc dữ thì hẳn nhiên câu “ai mà nói động đến ta sẽ chúc dữ……” sẽ trở nên ích kỷ và độc đoán.
b. Abram đến Ai Cập khi xứ này đang xảy ra đói kém, khi sắp vào Ai Cập ông nói với Sara vợ ông: “Này tôi biết mà, mình là một cô gái có nhan sắc. Dân Ai Cập vừa nhìn thấy mình ắt chúng sẽ nói: “Vợ hắn đó” và chúng sẽ giết tôi, mà để mình sống. Tôi xin mình hãy nói mình là em gái của tôi, mong tôi cũng được chúc phúc vì mình, và tính mạng tôi được sống nhờ mình..." Câu chuyện này Abram hoàn toàn không nhớ đến Chúa hoặc cầu xin quyền năng từ Chúa, có ý kiến cho rằng Chúa không hiện diện trong trường hợp này và cách làm của Abram là bất nghĩa, tham sống sợ chết, bất nhân với Pharao khi nói dối vợ là em gái mong được sống và được của cải. Câu chuyện này hoàn toàn không mang tính giáo dục.
c. Thiên Chúa phán bảo Abram “Ngươi hãy biết tỏ điều này: dòng giống ngươi sẽ ngụ nhờ nơi thửa đất không thuộc về chúng. Người ta sẽ bắt chúng làm  tôi và hành hạ chúng bốn trăm năm. Những dân mà chúng phải làm tôi, ta sẽ xét xử, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều của cải….”. Sao tự nhiên lại bắt dân Do Thái làm nô lệ bốn trăm năm? Nếu việc dân Do Thái phải làm nô lệ là do quyền năng của Chúa thì tội lỗi không hẳn là người chủ nô vì Chúa bắt người này làm nô lệ người kia thì sao lại đi xét xử chủ nô? Rõ ràng có điều chưa đúng! Từ đây có thể đặt thêm mấy vấn đề:
  • Rõ ràng A Đam không phải là tổ phụ của tất cả các sắc dân.
  • Đại hồng thủy không phải tiêu diệt hết mọi giống dân đến nỗi chỉ còn dòng họ No – ê vì người Ai Cập chắc chắn không thuộc dòng dõi ông Nô – ê. Tính vào lúc xảy ra Đại hồng thủy thì dòng dõi A Đam chỉ còn Nô – ê và gia đình ông ta. Nếu vậy thì tội tổ tông không chắc chắn là của tất cả các sắc dân khác ngoài gia đình – dòng tộc A Đam.
d. Việc ban phát đất đai do Chúa ban cho dân Do Thái – Abram thì cũng có điều chưa đúng vì hầu hết tất cả mọi vùng đất và của cải dân Do Thái có đều do đánh chiếm từ các dân tộc khác. Có thể nói rằng đó là những cuộc xâm lược và cướp bóc.Giá trị của việc ban phát từ Chúa không vững vàng trên thực tế!
đ. Tranh chấp giữa Saray vợ lớn và Hagar vợ nhỏ Abram không thể là những việc thánh thiện để chép trong kinh thánh được. Nó không mang tính giáo dục!
e. Việc ngã giá giữa Chúa và Abraham về số người tốt lành và người dữ ở Sô Đôm làm cho nhiều người cảm thấyquyền năng của Chúa hạn hẹp hoặc sự giáo dục của Chúa quá vội vàng, thường thì ta phải giáo dục để tỏ lòng nhân chứ sao lại lấy lòng phạt vạ làm chuẩn mực. Câu chuyện này không mang tính giáo dục cao về nhân nghĩa.
f. Câu chuyện tại Gơ – ra nói việc ông Apraham (tên do Chúa đặt từ tên Abram) đã lừa vua Avimelec nói bà Sara (tên do Chúa đặt từ tên Saray) rằng bà là em gái ông, do đó nhà vua đã ra lệnh bắt bà Sara và đêm đó Chúa đã cảnh báo về sự thật với nhà vua đồng thời phạt vạ nhà vua rằng tất cả con gái – phụ nữ trong toàn thành sẽ không có thai nếu nhà vua ngủ với Sara, đồng thời phải trả Sara lại cho Apraham. Đây giống như mưu kế của Chúa và Apraham gài bẫy nhà vua Gơ – ra để chiếm vàng bạc và đất đai. Vì chỉ sau khi trả Sara về đồng thời với vàng thì nhà vua buộc phải cắt đất cho Apraham. Mưu mô xảo quyệt như vậy thì khó nên thánh hay được viết vào kinh thánh.
2.4. Câu chuyện của Lot với 2 con gái trong một hang động. Cô cả nói với cô út: “Cha ta già rồi; trong xứ lại không có đàn ông nào đến với ta theo lối thường trong cả thiên hạ. Nào! Ta chuốc rượu cho cha ta uống và ta ngủ với ngài; như thế là sẽ lưu tồn dòng giống do bởi cha ta!” và họ đã chuốc rượu cho cha họ uống trong chính đêm ấy, và cô ta đến ngủ với cha mà ông không hay biết lúc nào cô nằm lúc nào cô dậy. Hôm sau cô cả nói với cô út “Này  đêm qua chị đã ngủ với cha. Ta hãy chuốc rượu cha uống cả đêm nay nữa, rồi em vào ngủ với ngài………Hai con gái của Lot đã có thai với ông….” Câu chuyện này được cho là hết sức tệ hại vì 2 cô gái này đâu cần gấp gáp khi các cô vẫn còn trẻ; phần cha cô vẫn có thể lấy vợ để duy trì nòi giống. Tình tiết loạn luân này không mang tính giáo dục mà còn phản giáo dục, kích động loạn luân.
2.5. Chuyện của Isaac và Gia – cop:
a. Khi vợ Isaac là Rê – bê – ca có thai song sinh. Các đứa con trong lòng bà đụng nhau nên bà kêu lên “Nếu vậy thì tại sao tôi thế này?” Chúa phán với bà “Có hai dân tộc trong lòng ngươi, hai dân từ dạ ngươi sinh ra sẽ chia rẽ nhau. Dân này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé”. Ý kiến cho rằng việc làm này của Chúa với mục đích gì, vì ngay cả việc chia rẽ nhau giữa anh em cũng là do Chúa sắp đặt, có vẻ như mọi việc đều do Chúa việc thiện lẫn việc ác?
b. Gia cóp đã lợi dụng lúc anh trai Ê – sau mệt và đói để lừa lấy quyền trưởng nam là hành động mưu mô có suy tính và không quân tử?
c. Việc gạt nhà vua Gơ – ra của Isaac khi nói vợ mình là bà Rê – bê – ca là em gái mô phỏng giống như thời cha ông là Apraham. Việc này cũng cùng với âm mưu chiếm lấy đất Gơ – ra của vua Avimelec người Philitin. Có ý kiến cho rằng sao không thể sống chung với người Philitin mà lại chiếm đất của họ khi mà họ đã cưu mang gần như cả hai đời dòng họ của Apraham và Isaac.
d. Việc Gia – cóp cướp sự chúc phúc của anh Ê – sau từ Isaac làm ta thấy rõ sự gian manh từ vị tổ phụ này. Đây là bài học quý và cũng không nên dạy cho mọi người? Trước lừa quyền trưởng nam sau lại cướp lời chúc phúc, đạo đức của Gia – cóp thật sự có vấn đề? Nếu Chúa công bình thì chắc rằng sẽ không chấp nhận sự chúc phúc này vì nó đã bị dơ bẩn bởi sự ích kỷ và giả dối.
Thực sự thì toàn bộ kinh thánh cựu ước có nhiều chi tiết rất khó chấp nhận, đa phần là tranh chấp trong gia đình, các việc lừa gạt chiếm đoạt, loạn luân, dâm ô…. Đa phần các tranh chấp đều do Chúa sắp xếp nên gây nên việc khó nghĩ cho nhiều người khi đọc kinh thánh. Nếu giải thích dụ ngôn thì có thể có nhiều chiều để suy diễn nhưng đây là những câu chuyện đối nhân xử thế, sinh tồn trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ nên chắc rằng sẽ không còn hoặc cần giải thích khi mà kinh thánh diễn giải khá chi tiết rồi. Mong rằng sẽ có nhiều sự ủng hộ trong việc chỉnh sửa hoặc loại bỏ những chi tiết không phù hợp trong kinh thánh cựu ước.
Sẽ bàn nhiều hơn về phần này nhưng xin vào dịp khác, xin tạm kết thúc ở đây.

Hội nhà báo độc lập là cái giống gì?

Sáng hôm nay, 4/7/2014 trên RFA và các trang lề trái nhất loạt đăng tin Hội nhà báo độc lập Việt Nam ra đời, do anh Phạm Chí Dũng là chủ tịch. Phó chủ tịch thường trực là đức cha Lê Ngọc Thanh. Thêm hai phó chủ tịch nữa là“nhà báo” Nguyễn Tường Thụy và “nhà báo” Bùi Minh Quốc. Ủy viên là“nhà báo” Ngô Nhật Đăng.



Còn lại là 37 thành viên khác, trong đó tôi rất khoái nhất là anh Đỗ Trung Quân, tôi khen anh thật thà. Anh tồng tộc khoe ngay trên blog của mình (sáng nay 4/7) rằng: “Một lần nữa, tôi lại thấy tên mình....dù thật sự tôi chưa chính thức gửi thư gia nhập Hội...”. Chả biết các thành viên khác thì thế nào, có ở trong tình trạng giống anh Quân hay không, và có thật thà như anh Quân không?

Nhưng điều tôi thắc mắc là chuyện: Hội Nhà báo độc lập này là cái giống gì?
Đầu tiên, nhìn vào danh sách Hội, tôi không thể tin tưởng hai chữ “nhà báo”của cái hội này lắm.
Ít nhất thì ngay trong số mấy cái tên vừa kể ở trên, ngoại trừ anh Chủ tịch còn lại các anh Đức Cha, anh Tường Thụy, anh Bùi Minh Quốc và anh Ngô Nhật Đăng, và cả anh Quân, tôi chả biết các anh đã là “nhà báo” từ lúc nào. Hay cứ có thơ ca hò vè, comment trên báo và lốc thì được gọi là “nhà báo” ?.
Tôi chẳng hề quá lời chút nào, đây, chính ngài ủy viên Ngô Nhật Đăng đã thú nhận trong trả lời phỏng vấn từ “nhà báo” Phạm Thanh Nghiên, sốt dẻo ngay sau khi Hội ra lò (xem thêm phần tái bút): “Chúng tôi chỉ là những “tay ngang” thậm chí còn bị gọi là “Chưa bao giờ có nổi một bài báo đúng nghĩa mà cũng đòi vận động cho tự do báo chí…” nên chỉ biết cố gắng thậm chí còn quá cả khả năng vốn có”.
Về hai chữ “nhà báo” thì như thế, bây giờ đến hai chữ “độc lập”.
Trả lời RFI ngay sau khi thành lập Hội, anh Chủ tịch Phạm Chí Dũng cho biết: “Có một sự thú vị, một sự ngạc nhiên thú vị, như anh Bùi Minh Quốc nói, là ngày thành lập Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam lại rơi đúng vào ngày 4 tháng 7- ngày của Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776”.
À hóa ra anh Dũng chủ tịch, một nhà báo kì cựu, lại không biết rằng ngày 4/7 là ngày Quốc khánh Hoa kỳ cơ đấy (?), mà lại phải nhờ ông Quốc nhắc tuồng, anh mới ngạc nhiên thú vị. Tình cờ, quý hóa quá cơ (đến bèo như anh Đăng cũng biết đó là sự tình cờ thú vị).
Mà tôi cũng phải nói thẳng ra, ngày 2/7 mới là ngày khai sinh ra bản tuyên ngôn đó, ngày 8/7/1776 mới là ngày nó được công bố lần đầu, tại Philadephia. Các anh cố tình lập lờ không gọi ngày đó là ngày Quốc khánh nước Mỹ, như người dân Mỹ và thế giới vẫn gọi, để tránh cái tiếng “nịnh chủ”, và đã “nịnh chủ” như thế thử hỏi có còn nên gọi là “độc lập”.
Tiện đây tôi cũng chỉ ra luôn, Philippines và Rwanda cũng là những nước có ngày quốc khánh là ngày 4/7, các anh có thấy tình cờ và ngạc nhiên không? Tại sao ngày thành lập Hội nhà các anh không liên can gì với quốc khánh hai nước mạt rệp này mà chỉ gắn vào mỗi cái ngày sinh của ông chủ các anh?
Ông chủ các anh là ai, thì đây, anh Đăng ủy viên kiêm "nhà báo" và “nhà báo” Phạm Thanh Nghiên cho biết đây:
“Việc này chúng tôi cũng đã có sự chuẩn bị từ lâu và cuối cùng như chị đã biết đó là chuyến đi vận động cho một nền báo chí độc lập ở Việt Nam tại Hoa Kỳ và dự cuộc hội thảo về Tự do báo chí nhân ngày báo chí Quốc tế. Đó là một trong những công việc cuối cùng”.
Và:
“Báo giới cũng như chính giới Hoa Kỳ dành cho chúng tôi một sự quan tâm đặc biệt, ... Do đó đã có một cuộc hội thảo với chủ đề: “Các tổ chức dân sự và chính giới Hoa Kỳ phải làm gì cho Tự do báo chí ở Việt Nam”.
Viết đến đây, thì đã đủ thấy, cái hội của các anh đã chả “nhà báo” lại cũng không “độc lập” tẹo nào, vì các anh phải dựa dẫm vào chính giới Hoa kỳ.

Thế thì gọi là Hội nhà báo độc lập là không ổn. Nhưng để từ từ, tôi nghĩ giúp cho các anh một cái tên, bá cháy con bọ chét nhé.
Xem nào, anh Dũng, chủ tịch hội, trước vốn là một người "cuồng" Nga Xô,"cuồng" đến mức anh đặt tên con và viết báo với bút danh Viết - Lê - Quân, giản lược từ mấy chữ Xô Viết – Lê Nin – Hồng Quân.
Bây giờ anh nhảy nhót theo chủ mới, “cuồng” Mỹ, thôi thì các cháu chả nên đổi tên, nhưng bút danh của anh thì dứt khoát phải đổi.
Đổi thành Ô – Hợp –  But nhé, thì cũng mô típ ấy, giản lược từ mấy chữ Obama – Hợp chủng quốc và  Bush. Vả lại trước anh dùng cái viết để viết thì nay anh dùng cái bút để kiếm ăn, có đổi mới.
Hội anh Dũng nên dùng ngay cái bút danh của ông chủ tịch hội, gọi là hội Ô hợp bút, được đấy chứ, OK?.
Gọi thế là chuẩn cmnr, vì một lãnh đạo tiêu biểu của Hội, như anh ủy viên Ngô Nhật Đăng chẳng hạn, anh ấy chả làm thơ được như ông Quốc hay anh Quân, càng không thể gọi là "nhà báo" như anh ấy tự nhận thức. Nhưng anh ấy có những cái tài khác, có thể gọi là đỉnh cao của sự ô hợp. Anh ấy chỉ nên làm nhà nhiếp ảnh hoặc diễn viên điện ảnh (phim loại X).
Bằng chứng đây, mời toàn thể Hội ta, một lần nữa, chiêm ngưỡng lại “tác phẩm để đời” của anh Đăng:



A ha! Ngắm anh Đăng, một trong năm nhà lãnh đạo Hội các anh, thì...

Trời đánh thánh đâm, tôi biết Hội Nhà báo độc lập nhà các anh là cái giống gì rồi.
Đây rồi, đây rồi, xin nhiệt liệt chào mừng! Nhiệt liệt! Nhiệt liệt!
Xin mượn cái ảnh này để "thay lời muốn nói"
(Thành thật xin lỗi các bác ở Hiệp hội, tôi không có ý xúc phạm)

--------------------------------------------
Tái bút:
Khi tôi đang gõ mấy dòng này (13h50), thì RFI đã có bài phỏng vấn anh Dũng  từ 13 giờ trước;  Thụy My RFA đăng tin trước đó cũng 13giờ, anh Diện nhọ và bô shit đăng tin trước đó đều là 10 giờ, như vậy, nếu đồng hồ của anh Diện và bô shit đúng, thì Hội ta thành lập trước lúc 4h sáng (?!).

Riêng bài Phạm Thanh Nghiên phỏng vấn Ngô Nhật Đăng thì khá lạ ở chỗ sau:
Mở đầu, bài báo cho biết việc phỏng vấn được thực hiện sau khi Hội ra tuyên bố thành lập là ngày 4/7/2014:
Nhân sự kiện Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam tuyên bố thành lập cùng với việc ra mắt số đầu tiên của “Việt Nam Thời Báo”, Phạm Thanh Nghiên đã có cuộc trò chuyện với ông Ngô Nhật Đăng, một trong những thành viên sáng lập Hội”.   
Đoạn cuối, thì lại cho thấy Nghiên phỏng vấn Đăng trước ngày 4/7/2014, là ngày hội thành lập.
“Phạm Thanh Nghiên: Thưa anh, “Việt Nam Thời Báo” sẽ ra mắt số đầu tiên vào ngày 4 tháng 7 tới. Nhưng ngoài báo mạng ra, VNTB có ra báo giấy ko thưa anh?
Ông Ngô Nhật Đăng: Theo dự tính số đầu tiên của “Việt Nam Thời báo” sẽ ra đời vào ngày 4/7”.
Như vậy có thể thấy cái hội Ô hợp bút này còn là hội ăn gian nói dối! Và việc chọn ngày 4/7 hẳn không phải là tình cờ.

Các đoạn trích RFI, RFA đều có trên mạng, bài Nghiên phỏng vấn Đăng có trên blog của Chênh. Ai chụp ảnh được màn hình thì nên lưu giữ (tôi bất tài).
Nguồn: Cụ Lý

HÀ VŨ- LÊ CÔNG ĐỊNH VÀ TƯ DUY "RƯỚC TẦU ĐÁNH TA"



Đọc bài viết trên trelangblogspotcom, thấy Lê Công Định đang khen nức khen nở, khen thở chẳng ra cái "kiến thức và tầm nhìn"của Công tử Cù trong bài trả lời phỏng vấn VOA ngày 15.6.2014. 
Khen quá, làm tôi phát sốt ruột, bèn lọ mọ tìm hiểu. Hóa ra "tinh hoa" của Cù Công tử nó phòi ra ở đoạn này:
- VOA hỏi: “Vậy những điều kiện như thế nào cần và đủ để giới lãnh đạo Việt Nam bắt buộc phải thay đổi vì quyền lợi đất nước?”.
- Cù công tử trả lời :
“Điều kiện để họ thay đổi là Trung Quốc tiến tới xâm lược nốt quần đảo còn lại là Trường Sa.
Trong trường hợp đó, nhân dân và quân đội Việt Nam sẽ phải có hành động chính thức buộc đảng cộng sản từ bỏ quyền lực của mình, lập chính phủ mới hoàn toàn của dân.
Chính phủ đó lúc ấy mới có thể đặt vấn đề liên minh quân sự với Mỹ và chỉ trong trường hợp đó Mỹ mới có thể giúp Việt Nam về mặt quân sự để bảo toàn lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông”.
Ní nuận rất đanh thép, rất rõ ràng và dứt khoát. Nhưng mà cái "tầm nhìn" kiểu này thì cũ xì, làm ta nhớ lại vài chuyện trước.
Trước hết, "tư duy" "rước Tầu đánh Ta" phải thuộc về các anh chị "nhà văng" Nguyễn Quang Lập, Trần Khải Thanh Thủy hoặc nhà "vô học" Bùi Hằng cái đã. Riêng "ý tưởng" "cầu cho thầy nó đánh nó" thì là độc quyền của nhà "vô học" Bùi Hằng "máu trên máu dưới". Không ngờ một Tiến sĩ Luật siêu như Cù Công tử cũng định "dây máu ăn phần"!
Đây là hình ảnh chụp lại đoạn đối thoại trên facebook giữa Trần Khải Thanh Thủy và Bùi Hằng  ngày 7.8.2012:



Tại sao khi ấy Trần Khải Thanh Thủy hào hứng khuyên mọi người hãy chờ xem “Trung cộng dạy cho một bài học vào cuối năm” và Bùi Hằng nhanh nhẩu “lập đàn cầu cho thầy nó đánh nó”?


Ch có cái chết mi chia nìa đôi na
Chẳng có gì là lạ, nếu ta biết trước đó 4 ngày, trên blog quechoa, chủ trang Nguyễn Quang Lập (Lập phò) đã hý hửng tương lên bài viết Nếu là lãnh đạo Trung Quốc tôi sẽ đánh chiếm Trường sa ngay thời điểm này.
Và sau, khi Mạc Ngôn, một người Trung Quốc, giải Nobel văn học 2012, phát biểu vu vơ rằng: “Tôi hy vọng ông Lưu sẽ được tự do sớm nhất có thể”. (Lưu, là Lưu Hiểu Ba, một ông rân trủ Tàu), ngay lập tức Lập phò nức nở tung hô: “Chính phát ngôn đó đã cho thấy tầm vóc lớn lao của Mạc Ngôn. Hoan hô bác Mạc Ngôntừ nay em nguyện yêu bác mãi mãi! Cho dù Tàu có đem quân xâm lăng nước Việt một lần nữa thì em vẫn yêu bác”.
Nên nhớ Mạc Ngôn là một sĩ quan tuyên truyền cao cấp thuộc Cục chính trị Bộ Tổng tham mưu quân đội Trung quốc, đã trực tiếp tham gia cuộc chiến xâm lược Việt Nam năm 1979.
Thì ra, tình “đồng chấy” của Lập phò dành cho các “đồng rận” bên Tàu (Mạc Ngôn, Lưu Hiểu Ba) thật cao cả và vĩ đại, làm gì còn chỗ cho tổ quốc với tổ cò.
(Kể ra đến chỗ “yêu bác mãi mãi” mà phò biết dừng, thì cũng đã phò phạch lắm rồi, mà lại còn tẹo kín đáo... Nhưng thôi, nói nữa thì phò lại bảo cái đồ "dạy đĩ vén váy").
Và cũng chỉ chưa đầy 2 tháng sau, (7.12.2012) phò bỗng đùng đùng tuyên bố: “Từ nay ỉa vào đọc bất kì cái gì của thằng cha này nữa”. (Đã bảo mà, cái giống phò nó thế!).


Còn nữa, nhưng thôi, hãy trở lại chuyện "kiến thức và tầm nhìn""siêu việt" của Cù Công tử.
Ta đã biết Cù công tử vốn có tư duy làm lãnh tụ vượt trội từ khi chia nhà với bố đẻ, lại học du thuyết ở Pháp về, nên vận dụng rất thành thạo câu ngạn ngữ “Kẻ thù của kẻ thù là bạn ta” (L' ennemi de l'ennemi est mon ami). Thật xứng đáng làm lãnh tụ bọn Hằng, Thủy, Lập và đám rân trủ cơ hội!
Đám này hằn học với chính quyền, vậy thì bất cứ kẻ nào, có thể gây ra tổn hại cho chính quyền, thì đều được chúng coi là "bạn", cho dù đó là một kẻ cuồng sát hay là cả một đội quân xâm lược. Và bằng mọi cách, mọi giá, kể cả việc phải trả bằng chủ quyền đất nước hay vận mệnh dân tộc
Cù Công tử hồi ở trong nước chỉ mơ làm lãnh tụ bộ Văn, nhưng bất thành bèn chuyển sang diễn hài. Nay sang Mỹ, Cù bỗng được các bô lão Cờ vàng dùng tạm, vì méo mó có hơn không.
Các bô thảo một “Thỉnh nguyện thư”, thỉnh Obama "quy hoạch"cho công tử suất Tổng thống VNCH III, vì đại khái thấy Cù yêu “nước” (Mỹ) cũng ngang tầm các cụ Diệm, Thiệu ngày trước. 
Thậm chí, Cù còn trội hơn các cụ kia ở chỗ, ngài sở hữu bí kíp Liên minh với Mỹ là mệnh lệnh của thời đại.
Nhưng Obama giả điếc, ậm à ậm ừ: Liên hoan à, OK, liên hoan good good, ngon lành thì anh tham gia, không hạp khẩu vị thì anh nghỉ, no problem. Then chốt là ở chỗ you phải tìm cách tự dọn mâm, chứ nhờ anh đuổi "nó" là not, bẩy đời tổng thống nhà anh chạy trước rồi đấy, Disme, anh thề!
Làm cách nào bây giờ? Hả Giời???
Thời "may", Giời chưa giúp, thì đã có con Giời. Con Giời vác dàn khoan Hải Gian 981 đóng đóng nhổ nhổ trên Biển Đông, đem đến một cơ hội vàng cho Cù Công tử. 
Nhưng chỉ cắm với nhổ mãi, thì chưa đủ. Lý tưởng và tham vọng của Cù cao hơn nhiều, đó là: "Trung Quốc tiến tới xâm lược nốt quần đảo còn lại là Trường Sa". 
Để ý kỹ câu hỏi cùa VOA nhé: “Vậy những điều kiện như thế nào cần và đủ để giới lãnh đạo Việt Nam bắt buộc phải thay đổi vì quyền lợi đất nước?”
Đã thấy "tầm nhìn và kiến thức" siêu việt của Công tử chưa?! Để tôi làm rõ thêm nhé.
Điều kiện đầu tiên (cần) là Trung Quốc xâm lược Trường Sa cái đã! Việc này phi đại ma vương Tập Cận Bình không ai có thể đảm nhiệm. Rước ngài.
Điều kiện cần tiếp theo, là nhân dân phải nổi dậy, (tất nhiên là nhân dân trong nước chứ hải ngoại nổi vào đâu), vì thế, việc này cứ bổ cho ông Sinh Hùng Quốc hội và ông Thiện Nhân MTTQ lo. Về quân đội tất nhiên ông Phùng Quang Thanh phải thi hành tổ chức binh biến, lập chính phủ mới. 
Xong chưa? 
Xong rồi thì tránh ra, để Cù Công tử ra tay thực hiện “mệnh lệnh thời đại”, là "liên hoan với Mỹ". Đây là điều kiện đủ, như công tử kết luận: Chỉ trong trường hợp đó, Mỹ mới có thể giúp bảo toàn lãnh thổ (sic) của Việt Nam ở Biển Đông. 
Đến đây, tuy đã vãi khâm phục việc "bảo toàn lãnh thổ" của Công tử, nhưng tôi lại vẫn còn tý khúc mắc. Bèn lấy hết can đảm, rón rén hỏi: "Thế, thế ... còn cái Trường Sa, công tử nhờ ... nó xâm ..xâm... giùm nay có định... định... đòi lại hay không?".
Công tử nuốt vội, rồi chùi mép, rồi trợn mắt, rồi đập bàn quát: "Ô hay, Trường Sa nào, từ khi Trẫm lên làm An Nam Quốc vương đến giờ có biết Trường Sa trường siếc gì đâu?"
Đấy, ở trên, tôi đã bảo rằng "lý tưởng" của Cù công tử cao quý hơn nhiều!
Và "kiến thức và tầm nhìn" của Công tử cứ gọi là "vượt vại tương" nhé! Vạn tuế?
Và CACC nên nhớ, anh Lê Công Định, vốn là một nhà suýt Thủ tướng, cũng từng được anh Lê Thăng Long tung hô ngất trời khi bàn giao lại "con đường nham nhở". Mà anh Long thì là người xin vào Đảng CS Việt Nam, với ước ao được làm Tổng bí thư trong 11 tháng, ối chà chà!!! 
Vậy thì anh Lê Công Định suýt Thủ Tuớng phải có trách nhiệm nức nở khen anh sắp Tổng thống, là Cù Công tửPhải quá đi rồi!
Các anh suýt "lãnh tụ" khen nhau là chiện phình phường. CACC Tre làng biết đéo gì, lại cứ hay thắc mắc, rõ có phải dở hơi biết bơi không?
Như Lê Chiêu Thống khen Trần Ích Tắc. Vậy thôi!


Cậu cầu giặc chiếm Trường Sa
Ừ, chị đi đổ rác cái đã, rồi Cậu tha hồ cầu!!!
Nguồn: Cụ Lý 

GOOGLE.TIENLANG: Hồ Song Tất Minh- em bé đầu tiên sinh ở Trường Sa ...

GOOGLE.TIENLANG: Hồ Song Tất Minh- em bé đầu tiên sinh ở Trường Sa ...: Hồ Song Tất Minh, em bé đầu tiên được sinh ra trên huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa nay đã lên 5 tuổi, rất hồn nhiên, dễ thương

2013/11/01

TRẦN XUÂN BÁCH - "ĐẢNG VIÊN TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA"?

Đông La


Trên mạng “lề trái” có bài của Hà Huy Tùng viết:

“Ngày 30/10/2016 vừa rồi, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư ĐCSVNđã ký ban hành Nghị quyết số 04/NQ/TW chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng. Chiếu theo nghị quyết này, bài phát biểu công khai của ông Bách cuối năm 1989 chắc chắn bị ghép vào tội danh “đảng viên tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Nhưng theo hồi ký của nhà báo lão thành Tống Văn Công, người đã nhiều lần được gặp và trao đổi ý kiến với ông Bách thì những ý kiến của ông Bách trong bài phát biểu công khai năm 1989 là chính xác và vẫn còn giá trị thời sự đến ngày hôm nay.

Theo ông Nguyễn Trung thì “Thế giới hôm nay đã sang trang làm phá sản mọi ý thức hệ và mọi thứ chủ nghĩa. Sức mạnh nội lực quốc gia và ý chí dân tộc là yếu tố quyết định trong thế giới sang trang. Quốc gia hôm nay phải được phát triển như thế nào, cùng đi với cả thế giới ra sao để tồn tại và phát triển. Đó là con đường dân tộc và dân chủ, nhưng hôm nay đòi hỏi nhiều hơn về chất lượng con người và thể chế vận hành quốc gia”.

Vậy hôm nay tôi sẽ đăng lại bài viết về Trần Xuân Bách. Đây là bài trong bản thảo cuốn sách mới của tôi, khi gởi lên “trên” để xét duyệt, bài viết này được khuyên nên cắt bỏ. Tôi đã cắt và còn cắt bỏ và sửa nhiều ý theo sự góp ý vì tôi viết sách chủ yếu không phải để kinh doanh mà chỉ muốn đóng góp trí tuệ của mình cho sự ổn định và phát triển của đất nước nên phải làm theo ý nhà nước. Cuốn sách đã được tinh lọc từ những bài viết chính luận mà tôi đã viết và đăng tải trên blog và facebook mấy năm qua, có rất nhiều bạn đọc đồng tình, đồng cảm, nhất là các bạn “cờ đỏ”, họ còn phong cho tôi danh hiệu “chiến sĩ trên mặt trận chống xuyên tạc”. Tôi đã nhận điện thoại của người đọc duyệt cấp cao nhất nói “thích hơn cuốn trước” nhưng kết quả cuối cùng, “nhà nước” có xử dụng, có xuất bản nó hay không thì tôi không biết.

26-12-2016

ĐÔNG LA

Trần Xuân Bách - GORBACHOV VIỆT NAM

Những người đòi đa nguyên, đa đảng thường dựa vào Trần Xuân Bách, từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, người được giao nhiệm vụ nghiên cứu về lý luận, nhưng lại theo xu hướng đa nguyên, đa đảng của trào lưu cải tổ bởi Gorbachov, nên Trần Xuân Bách được coi như một “Goocbachov của VN”.

Tại Hội nghị Trung ương Đảng (tháng 3 năm 1990), ông đã bị phê phán gay gắt và bị kỷ luật, phải ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương.

Thứ nhất, Trần Xuân Bách cho: “Bản chất của cuộc sống là đa nguyên. Đổi mới chính là thuận theo bản chất cuộc sống xã hội vốn mang tính đa nguyên cả về kinh tế, chính trị, văn hóa”.

Đa nguyên nghĩa tổng quát là đa dạng.Nguyên là bản nguyên, khởi nguyên, nguyên lý, nguyên do, v.v… Cuộc sống về hình thức là đa nguyên, là sự tồn tại, sự sống, sự biến đổi của muôn vật, muôn loài. Nhưng sự vận động, biến đổi, phát triển, về bản chất, lại là nhất nguyên. Dù vô vàn thứ khác nhau như vậy, nhưng muốn tồn tại và phát triển, buộc phải tuân theo những quy luật chung. Như người này khác người kia, dân tộc này khác dân tộc kia, loài này khác loài kia; vô vàn các biến đổi lý học, hóa học, sinh học, v.v… nhưng đều phải tuân theo quy luật của di truyền nói riêng và của khoa học nói chung.

Với thể chế chính trị cũng vậy, tùy theo lịch sử, trình độ phát triển và điều kiện tự nhiên của mỗi nước, một thể chế phù hợp sẽ là tốt nhất cho sự ổn định và phát triển. Vậy chính sự phù hợp mới là quy luật chứ không phải đa nguyên, đa đảng là quy luật. Có điều thế nào là phù hợp mới là khó khăn nhất. Chính vậy người ta phải đi tìm kiếm, và không có gì có sẵn cả mà chỉ có thể dần hoàn thiện mà thôi.

Nhìn vào thực tế, ta thấy đa đảng hay độc đảng không phải là cái quyết định cho sự phát triển. Cùng độc đảng, có nước phát triển, có nước không (như Xinhgapo và Triều Tiên chẳng hạn); cùng đa đảng, cũng có nước phát triển, có nước không. Nhưng cũng phải hiểu, có nước đa đảng, nhưng thực chất chỉ là những nhóm khác nhau, không có nền tảng lý luận riêng, chỉ cùng chung mục đích là giành quyền lực để mưu cầu lợi ích cho đảng của mình.

Với nước Mỹ, theo Noam Chomsky, người mà tờ tạp chí Anh Prospect đã cho là nhà trí thức hàng đầu trên thế giới:

Ông đã trả lời Tạp chí SPIEGEL của Đức. Theo ông thì phe Cộng hòa và phe Dân chủ có những khác biệt nhưng không phải là cơ bản. “Thực chất Mỹ là một chế độ độc đảng, và cái đảng cầm quyền là Đảng Kinh doanh” (Die USA sind im Kern ein Einparteiensystem, und diese eine regierende Partei ist die Business-Partei).

***

Nước ta về cuộc sống cũng đa nguyên, nhưng mục tiêu, lý tưởng là nhất nguyên, chính vậy mới có chế độ một đảng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó.

Đảng đó chính là Đảng CSVN, đảng không phải chỉ do một cuộc bầu cử bầu ra mà chính lịch sử đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước đã “bầu” ra Đảng!

Trần Xuân Bách cho: “Kinh tế nhiều thành phần sẽ làm cho xã hội có sự phân tầng; mỗi giai tầng có quyền lợi, nguyện vọng khác nhau, từ đó nảy sinh đa nguyên chính trị”, “Xu thế chủ yếu là chuyển sang sở hữu tư nhân”.

Như vậy, Trần Xuân Bách muốn xóa bỏ chế độ XHCN với lý tưởng vì đa số quần chúng lao động. Nếu cho xã hội phân tầng và cần phải có đa đảng tương ứng, chắc chắn sẽ có một tầng mạnh nhất nắm quyền lãnh đạo, và như vậy mọi chính sách nhà nước được đặt ra sẽ vì lợi ích của họ. Phải chăng việc buôn bán vũ khí tự do ở Mỹ đến TT Obama cũng bất lực chính là một minh chứng. Dù nước Mỹ rất phát triển, chủ yếu do nền tảng khoa học công nghệ, nhưng thể chế chính trị vẫn có những bất hợp lý nên mới có quá nhiều khủng hoảng, từ tài chính đến nhà đất, kể cả việc sa lầy vào các cuộc chiến. Không biết có làm giàu cho ai không nhưng đã làm tổn thất cả tiền bạc lẫn máu xương dân Mỹ, làm suy yếu chính nước Mỹ. Chính Chomsky cũng nói: “Còn ở phe bảo thủ thì mới đây, phó Tổng thống Dick Cheney đã minh họa cách hiểu dân chủ của mình. Khi được hỏi tại sao ông ủng hộ duy trì cuộc chiến Iraq, trong khi đa số dân chúng phản đối cuộc chiến này, thì câu trả lời của ông ta là: "Thế thì đã sao?”” (Spiegel số 41/20 ngày 06.10.2008).

Với nước Mỹ và các nước phát triển, các nhà tư bản của họ làm giàu từ chí lớn, từ nền khoa học công nghệ cao, còn nước ta với một nền tảng tiểu nông, đến nay sản phẩm cơ bắp vẫn là chủ yếu, nếu cho phân tầng mà lập đảng, những kẻ tài nhỏ mà chí lớn nhất định sẽ có những “mánh” kiểu maphia để tranh giành quyền lực. Như vậy, ý Trần Xuân Bách cho xã hội tự do phân tầng, tự do lập đảng để tranh giành quyền lực thì không thể nào mà tốt đẹp được. Một thể chế như vậy làm sao có thể tốt hơn được thể chế hiện tại được sinh ra từ chính thực tiễn cách mạng VN!

Trần Xuân Bách cũng nói: “Đổi mới chính trị là từng bước chấp nhận đa nguyên chính trị song song với đa nguyên kinh tế, đúng như Marx, Engels: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. (Lời tựa cho Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảnbản tiếng Đức, 28-6-1883).

Nếu tuân theo một cách thô thiển và giáo điều Chủ nghĩa Mác thì nước ta vốn là một nước nô lệ, tiểu nông, chúng ta phải xây dựng một thể chế chiếm hữu nô lệ mới đúng. Và như vậy Lê-nin cũng không thể sáng tạo, cho cách mạng XHCN có thể thành công ở một hoặc một số nước, không thể không chỉ từ một nền tảng tiểu nông, giữ vững được nhà nước XHCN đầu tiên mà còn biến LX thành nước có sức mạnh chiến thắng Phát xít và thành siêu cường đối trọng được cả với Mỹ.

Vì vậy, cần phải hiểu ý của Mác và Ăng-ghen mà Trần Xuân Bách đã dẫn ở trên một cách biện chứng. Thực ra ý đó là từ nguyên lý “quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất”. Cần phải coi lực lượng sản xuất còn bao hàm cả ý thức thời đại. Nước ta kém phát triển, nhưng với thời đại internet, chúng ta dễ dàng tiếp cận tri thức thời đại, nên vẫn có thể xây dựng một thể chế theo lý luận là tiên tiến nhất, là XHCN, trên cơ sở một nền tảng tiểu nông và tiền tư bản.

Thật thú vị là nhìn tổng thể nước ta đã đạt được những thành quả mà nếu khách quan ai cũng phải thừa nhận. Nhưng cũng chính vì vậy, với ý tốt thì người ta cho là mầy mò sáng tạo, với ý xấu thì cho là “chẳng giống ai”. Xã hội chúng ta vẫn còn nhiều cái phải cắt bỏ, nhiều cái phải chỉnh sửa, nhiều cái phải bổ sung. Từ đó theo quy luật Phủ định của phủ định dần dần lượng đổi chất đổi, chúng ta mới có thể “sánh vai cùng bè bạn 5 châu”. Đó chính là con đường tắt xây dựng CNXH, là con đường phù hợp nhất đối với nước ta. Chính thực tiễn VN chiến thắng trong chiến tranh, VN đứng vững qua những hiểm nguy, VN đang phát triển, đã đóng góp những nội dung mới cho lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê-nin. Còn bây giờ lại đi theo mô hình tư bản, đa nguyên, đa đảng, tranh giành nhau như thời tư bản sơ khai của họ thì không biết cái gì sẽ xảy ra?

Về dân chủ và tự do ngôn luận, Trần Xuân Bách nói: “Ngày 24 tháng 9 năm 1982, Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về các quyền dân sự và chính trị. Công ước này có quy định quyền tự do ngôn luận: Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp; được tự do ngôn luận bao gồm tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến bằng các hình thức tuyên truyền miệng, viết ra, in, tự do sáng tạo các hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng…”

Điều này thì lại chính là chuyện “cuộc chiến xung quanh điều luật 258” mới đây mà đại diện là hai cô gái Nhật Lệ và Đoan Trang, phần thắng áp đảo đã nghiêng về Nhật Lệ, một cô sinh viên mới 20 tuổi, đẹp người đẹp nết; ngược lại Đoan Trang “đã toan về già”, lại xấu tính xấu nết. Cô Đoan Trang chính là người đã đi theo bước chân của Trần Xuân Bách, cho điều 258 Bộ Luật Hình sự nước ta là vi phạm Điều 19 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, có nội dung như ý Trần Xuân Bách ở trên.

Ta hãy coi lại nguyên bản tiếng Anh:

Article 19: Everyone has the right to freedom of opinion and expression; this right includes freedom to hold opinions without interference and to seek, receive and impart information and ideas through any media and regardless of frontiers”.

Tôi đã viết chữ “right” có nhiều nghĩa, trong đó nghĩa chính là lẽ phải, đúng, có lý, ngoài ra còn có nghĩa là quyền. Như vậy chữ “quyền” ở đây không có nghĩa là quyền lực như power, quyền hạnnhư jurisdiction mà chỉ tính chất đúng đắn của hành động. Vì thế “Everyone has the right to freedom of opinion and expression” nên dịch là: Mọi người đúng (có lý) khi tự do ý kiến và biểu đạt. Ý nghĩa sâu xa và toàn diện của nó chính là mọi người có quyền nói ra những ý của mình, nhưng chỉ là những ý đúng thôi, còn cố tình viết bậy, nói bậy, làm càn sẽ là phạm pháp!

Hơn nữa, để tránh lạm dụng gây ra sai phạm, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyềncòn đưa ra thêm Điều 29, trong đó cóKhoản 2: Trong việc thực hiện lẽ phải và sự tự do của mình, ai cũng sẽ phải lệ thuộc chỉ vào những giới hạn được xác định bởi luật pháp duy nhất nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng lẽ phải và tự do của người khác và chỉ đáp ứng yêu cầu của đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. (In the exercise of his rights and freedoms, everyone shall be subject only to such limitations as are determined by law solely for the purpose of securing due recognition and respect for the rights and freedoms of others and of meeting the just requirements of morality, public order and the general welfare in a democratic society).

Thật tiếc ở ta, vì không hiểu luật nên đã có nhiều người vi phạm điều này. Còn các vị nhân sĩ trí thức luôn nhân danh đấu tranh cho dân chủ, nhưng điều tối thiểu của dân chủ là thiểu số phục tùng đa số họ cũng không chịu hiểu.

Qua một bài viết, ông Tống Văn Công cho biết: “Anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật ít lâu thì phó TBT báo Nhân Dân Bùi Tín nhân được cử đi dự họp báo Nhân Đạo, đã trả lời phỏng vấn đài BBC về dân chủ hóa, bị báo Nhân Dân thi hành kỷ luật, và xin tị nạn chính trị tại Pháp. Trong bài Xa lộ thông tin chỉ còn lề phải tôi có tỏ ý tiếc “Phải chi anh Bùi Tín tiếp tục nói ở trong nước, dù lời lẽ có nhẹ hơn đôi chút vẫn dễ được đồng bào lắng nghe”.

Một người lật lọng, điêu toa, “bất tín”, một “miếng giẻ chùi máu giầy quân xâm lược” mà cộng đồng mạng đã gọi, Tống Văn Công vẫn “tiếc” và cho “đồng bào” trong nước sẽ lắng nghe thì buồn cười thật. Có chăng chỉ Tống Văn Công và những người cùng hội cùng thuyền với ông lắng nghe ông “Bất tín” mà thôi!

***

Ben Rowse, ngày 15/1/2004, trong bàiFormer South Vietnamese leader endorses Communist Party on his return, viết (Cựu Tướng Không quân nói rằng một chính quyền độc đảng mang đến “sự ổn định và kỷ luật” thì cần thiết cho Việt Nam để ra khỏi sự nghèo khổ. “… Tôi cho rằng thật là sai lầm khi một số người, đặc biệt là một số người Việt ở Mỹ, ngày nay đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận và thực hiện một nền dân chủ giống như nền dân chủ họ đang hưởng ở Mỹ. Quan niệm của tôi là, đó là một sự sai lầm. Nền dân chủ đó không thích hợp với Việt Nam trong tình thế hiện nay”, ông Kỳ nói) [The former air force general said a strong one-party government that provided "stability and discipline" was essential forVietnam to escape the clutches of poverty… "I think it is very wrong that some, especially some Vietnamese overseas in America , today are asking, demanding that Vietnam has to adopt some sort of democracy like they have in America . My personal opinion is that it is wrong. It does not fit Vietnam in the present situation," said Ky].

Khi được Jim Rohwer, Kinh tế Gia… hỏi: “Dân Chủ giúp, hay làm chướng ngại, hay không liên quan gì đến mức độ tiến nhanh như thế nào của các quốc gia Á Châu? (Is being a democracy a help, a hindrance, or irrelevant to how fast Asian countries can go?) Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã trả lời:

Nếu ông ở trong một xã hội nông nghiệp, tôi cho rằng dân chủ không làm cho xã hội tiến nhanh. Hãy coi Nam Hàn, Nhật, và Đài Loan. Trong những giai đoạn đầu họ cần đến, và đã có kỷ luật, trật tự, và sự cố gắng. [Chúng ta nên nhớ, Nam Hàn và Đài Loan, những quốc gia không có chiến tranh, không có hận thù nội bộ, cũng phải ở dưới chế độ độc tài quân phiệt trong 30 năm, từ 1950 đến 1980, rồi mới tiến tới dân chủ, nhưng cũng không phải là dân chủ Mỹ.] Họ phải tạo ra sự thặng dư về nông sản để bắt đầu làm cho mặt kỹ nghệ tiến. Không có chế độ quân phiệt, hay độc tài, hay chính phủ độc đoán ở Nam Hàn và Đài Loan, tôi không nghĩ rằng các quốc gia này có thể chuyển đổi mau như vậy.

Trái lại, hãy coi Phi Luật Tân. Họ có dân chủ để tiến từ năm 1945. Họ chưa bao giờ tiến được bước nào; xã hội quá hỗn loạn. Nó trở thành một trò chơi trong phòng khách – ai lên cầm quyền, ai chiếm hữu được cái gì”… Nhưng một khi tiến tới một trình độ tiến bộ kỹ nghệ nào đó, ông đã có một lực lượng lao động có học,… Rồi ông có thể bắt đầu một xã hội công dân, với những người họp thành từng nhóm: chuyên gia, kỹ sư, v..v… vì là những người có học, có tầm nhìn thế giới rộng rãi hơn, sẽ kéo những người cùng trình độ đến với nhau. Chỉ như vậy ông mới có thể bắt đầu cái mà tôi gọi là hạ tầng cơ sở dân chủ [Chỉ mới là bắt đầu hạ tầng cơ sở dân chủ thôi]. (Theo GS Trần Chung Ngọc)

***

Từ Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách, Trần Độ, v.v… hôm qua đến Nguyên Ngọc, Huệ Chi, Tương Lai, Hiếu Đằng, Chu Hảo, Quang A, v.v… hôm nay, bài học cho họ áp dụng để thay đổi thể chế chính là sự tan vỡ của Liên Xô. Gần như họ đã copy từng bước, từng hành động của những người đã đập vỡ LX ngày nào. Đó là con đường từ Khơrutsov đến Gorbachov rồi cuối cùng là Enxin. Điều khó hiểu là tại sao họ làm vậy? Phải chăng vì họ muốn tạo cớ giành quyền lực chứ làm sao có thể vì dân vì nước được? Bởi sau tan vỡ LX là thảm họa. Dù chế độ XHCN ở LX dần đi tới trì trệ nhưng chính nó đã thiết lập ở LX những tính chất bình đẳng, bác ái tốt nhất mà chưa từng xuất hiện ở đâu trên trái đất. IVAN DERANVIN, đã sống phần lớn cuộc đời với tư cách của một công dân Liên Xô (trên NEWSLAND.RU, lược dịch của Bogger KICHBU), viết:

Tôi nhớ một cuộc sống như thế nào? Đúng hơn, không chỉ đơn giản là nhớ, mà còn mang trong tim mình ký ức về mẹ và mối tình đầu. Điều đầu tiên hiện lên trong đầu: đó là một cuộc sống vô tư và tươi sáng. Không phải là thiên đường, mà gần gũi với mọi con người chúng ta. Bạn không phải lo thất nghiệp và bần cùng”.

Thay vào đó, các mảnh vỡ của LX đã rơi vào tình trạng hỗn loạn mà TT Nga Putin đã cho là “thảm họa”. Sự tư hữu hóa theo kiểu maphia mà đến Enxin cũng phải thú nhận Maphia Nga đã phát triển còn hơn cả nơi sinh ra nó là Ý.

Việt Nam với một lịch sử bị xâu xé, trình độ mọi mặt còn thua xa LX, nếu cũng đi theo vết xe đổ của LX, xã hội chắc chắn sẽ tệ hại hơn ngàn lần. Vậy tất cả hãy cảnh giác! 

1-11-2013

Nguồn:
http://donglasg.blogspot.com/2016/12/tran-xuan-bach-ang-vien-tu-dien-bien-tu.html