2013/07/26

Về Tình Trạng Đồng Hóa Đức Tin Với Chính Trị Của Giáo Hội Công Giáo Tại Việt Nam

Con chiên có quyền gọi Giáo hoàng của họ như thế nào cũng được, nhưng đối với tôi, và tôi tin rằng đối với những người ngoài đạo, nó thật vô nghĩa.  Chuyện khôi hài là có tin giáo hội đã đi đến giai đoạn cuối để phong thánh cho Giáo hoàng John Paul II.  Nhưng đối với các tín đồ Việt Nam, khi gọi ông ta là “đức thánh Cha”, thì họ đã phong thánh cho ông ta từ khi ông ta lên ngôi Giáo hoàng.  Lẽ dĩ nhiên chức thánh, theo quan niệm của Ca-tô giáo, chỉ có giá trị trong Ca-tô giáo, ngoài ra không có bất cứ một giá trị nào đối với dân ngoại đạo.  Có người Việt Nam ngoại đạo nào coi 117 thánh Việt Gian mà Giáo hoàng John Paul II phong cho trước đây là thánh không?. 
Đọc đoạn phát biểu của Tổng giám mục Leopoldo Girelli, đại diện Giáo hoàng Francis ở Việt Nam, chúng ta thấy rõ, chủ trương và sách lược “ngu dân dễ trị” và xâm  lăng văn hóa, xâm lăng tôn giáo của Vatican  không hề thay đổi.  Chứng minh?
“Đối Thoại” giữa các tôn giáo là sự trao đổi ý kiến để đi đến sự hiểu biết, sự thông cảm nhau trong tình thân thiện. Do đó tinh thần của đối thoại là: “tôn trọng ý kiến của nhau”.  Đối thoại là dùng lý luận và hiểu biết để giải quyết các bất đồng. Phật Giáo và Ca-tô Giáo là hai tôn giáo hoàn toàn khác nhau tuy có vài điểm chung trong giáo lý của mỗi tôn giáo.  Ca-tô Giáo là tôn giáo của “đức tin”.  Phật Giáo là tôn giáo của “trí tuệ”.  Hai con đường ngược chiều, “đức tin” = con đường đi tới mê tín (The path to superstition), “trí tuệ” = con đường đi tới hiểu biết (The path to knowledge).  Trên thực tế, Phật Giáo hiểu biết rất nhiều về Ca-tô Giáo trong khi đó Ca-tô Giáo hiểu biết rất ít về Phật Giáo và thường là sai lầm, hay cố ý sai lầm. 
Tổng giám mục Leopoldo Girelli nói:
Con đường đối thoại chân thành và ôn hòa với thế giới trong đó Hội thánh Chúa Kitô hiện diện và sống vẫn luôn là con đường cơ bản để loan báo Tin mừng cứu rỗi [không phải “cứu độ”].

Đối thoại với mưu đồ loan báo Tin mừng cứu rỗi  không phải là tinh thần đối thoại, mà là có tính cách xâm lăng văn hóa và xâm lăng tôn giáo. Truyền đạo không phải là đối thoại, nhưng đây chính là mục đích đối thoại của Ca-tô Giáo.
Thật ra thì chủ trương đối thoại liên tôn của Giáo hội Ca-tô từ Công Đồng Vatican II là chỉ nhắm đến sự thống nhất của các giáo phái Ki-tô, cùng thờ một Chúa, nhưng vẫn bất hòa và chém giết lẫn nhau.  Vatican muốn mọi giáo phái Ki-tô đều phải quy về Ca-tô Rô-ma Giáo, vì Ca-tô Giáo tự nhận giáo hội Ca-tô là duy nhất, do Chúa thành lập.  Vatican không chủ trương đối thoại chân thành với các tôn giáo phi-Ki-tô vì Vatican nhiều lần khẳng định mọi tôn giáo không tin như Ca-tô giáo tin đều sai lầm.  Thật vậy:
-  Giáo hoàng John Paul II viết trong cuốn Crossing the Threshold of Hope, 1994: “Phật giáo đại thể là một hệ thống vô thần”(Buddhism is in large measure an “atheistic” system).-.  Chúng ta đã biết, “vô thần” là kẻ thù không đội trời chung của Ca-tô giáo. Đối với Ca-tô Giáo, “vô thần” còn nguy hiểm hơn là Cộng sản. Bởi vậy, ngày nay những nô lệ của Vatican ở  Việt Nam, từ Hội Đồng Giám Mục xuống tới các con chiên ngu đạo ở trong nước cũng như ở ngoại quốc, vẫn năng nổ áp đặt vô thần vào Cộng sản để chống.  Giáo hoàng cũng còn gọi các nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là “những con chó sói đói mồi..gây bất hòa và chia rẽ trong những cộng đồng của chúng ta.” (Newsweek, Feb. 12, 1996: John Paul II denounces them (the Protestant missionaries) as ravenous wolves.... causing discord and division in our communities.).  Vậy thì những người đi “loan báo tin mừng cứu rỗi” qua chiêu bài “đối thoại” trong những quốc gia Phật Giáo như Việt Nam, có phải là “những con chó sói đói mồi..gây bất hòa và chia rẽ trong những cộng đồng Phật Giáo của chúng ta.” hay không.
- Năm 1997, Ratzinger, sau lên làm Giáo hoàng Benedict XVI, nói “Phật Giáo là một thể tâm linh tự dâm”, đề nghị cho tín đồ “sự siêu việt mà không phải áp đặt những bổn phận tôn giáo cụ thể” (nghĩa là không mù lòa tin bướng tin càn như tín đồ Ca-tô) .  Ông ta nói Ấn Giáo đề nghị “sự hi vọng sai lầm” trong đó  tôn giáo đó bảo đảm “sự thanh tẩy” căn cứ trên một quan niệm “sự độc ác tinh thần” về sự luân hồi giống như “một vòng địa ngục liên tục”.  Năm đó, Hồng Y Ratzinger tiên đoán “Phật giáo sẽ thay thế chủ nghĩa Mác như là kẻ thù chính của giáo hội Ca-tô
(In 1997 Ratzinger called Buddhism an “autoerotic spirituality” that offers “transcendence without imposing concrete religious obligations.” Hindusim, he said, offers “false hope,” in that it guarantees “purification” based on a “morally cruel” concept of reincarnation resembling “a continuous circle of hell.” At the time, Cardinal Ratzinger predicted that Buddhism would replace Marxism as the Catholic church’s main enemy.) (http://fraughtwithperil.com/ryuei/2005/04/22/ratzinger-predicted-that-buddhism-would-replace-marxism-as-the-catholic-churchs-main-enemy/)
Đó là đạo đức các “đức thánh cha” của các tín đồ Ca-tô Việt Nam, những vị chủ chăn Ca-tô cuồng tín, hiểu biết rất nghèo nàn về Phật Giáo.  Điều rõ ràng là Ca-tô giáo đã dựa trên những sự mê tín hoang đường của mình để phê bình triết lý các tôn giáo khác.  Ca-tô giáo tin rằng, con người chỉ sống có một đời, sau khi chết hoặc được Chúa cho lên thiên đường (mù), hoặc bị Chúa đầy xuống hỏa ngục vĩnh viễn.  Do đó Ratzinger đả phá thuyết luân hồi trong khi có rất nhiều bằng chứng khoa học chứng tỏ luân hồi là có thật.
Đã coi Phật Giáo như kẻ thù chính, vậy làm sao Ca-tô giáo có thể  “đối thoại chân thành” với Phật Giáo?  Rõ ràng là Ratzinger đã hoảng sợ trước sự phát triển của Phật Giáo, trước giá trị hòa bình không một vết máu của Phật Giáo, được tôn là tôn giáo tốt nhất trên thế giới (The best religion in the world).  Vì sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới, giáo hội đã đưa ra chiêu bài “đối thoại chân thành” để ve vuốt dụ khị những người thiếu hiểu biết về giáo hội Ca-tô, cho rằng giáo hội thành thực nói chuyện với các tôn giáo phi-Ki-tô để cùng nhau sống trong hòa bình mà quên rằng mục đích đối thoại của Ca-tô Giáo chỉ để thực hiện âm mưu xâm lăng văn hóa và tôn giáo nấp sau chiêu bài “loan báo Tin mừng cứu rỗi” trong những địa phương nghèo khổ, chậm tiến trong thời đại mà Tây phương tiến bộ đã không còn cần đến loại Tin Mừng này nữa.  Xin nhớ, quan niệm “cứu độ” là giáo hội Ca-tô mới đi ăn cắp của Phật Giáo trong thời gian gần đây.  Trong Ca-tô giáo chỉ có “cứu rỗi” chứ không có “cứu độ”, ý nghĩa của hai quan niệm này hoàn toàn khác nhau.  Xin đọc: http://sachhiem. net/TCN/TCNtg/TCN120.php
Thật vậy, theo tin hãng Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau lòng mà chấp nhận một sự thực:
Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Gót, mà cũng còn chẳng cần gì đến Chúa Dê-su nữa.  Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần.”
  Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát triển, Giáo dân đi  lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%.Ngài nói thêm: Tuy nhiên không phải chỉ có đạo Ca-Tô Rô-ma bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả.
  (It is different in the Western world, a world which is tired of its own culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian Alps.
  "The so-called traditional churches look like they are dying," he said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.
Participation at Sunday Mass in some developed countries was as low as 5 percent, a recent Vatican report said.
"The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant Churches but naturally it shares the problem of this moment in historỵ"  "There’s no system for a rapid change.”)
Tây phương đã thức tỉnh nhưng ở nhiều địa phương chậm tiến về tư duy, tín đồ vẫn còn mê.  Do đó Giáo hội vẫn còn khai thác sự yếu kém tinh thần của đám tín đồ vẫn còn mê muội này. Giáo hoàng Benedict XVI không còn cách nào khác là van xin các tín đồ Ca Tô, nhắm vào khối tín đồ Ca Tô lạc hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên trì giữ vững đức tin, tiếp  tục tiến bước trong đường hầm [keep walking in the tunnel], có thể ánh sáng le lói của Chúa Ki-Tô sẽ xuất hiện ở cuối đường hầm [Christ light would appear at the end].  Giáo hội sống còn là nhờ đám giáo dân thấp kém ở các địa phương này.  Ngày nay mà các bề trên của họ còn hi vọng đi rao giảng Tin Mừng Cứu Rỗi, thì phải hiểu họ lạc hậu đến mức nào.
Giáo hội ngoài mặt vẫn còn mạnh vì dựa vào khối đông tín đồ thấp kém ở dưới,  đúng như nhận định của Thống Đốc Jesse Ventura của Bang Minnesota: “KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông” (Christianity is a sham and a crutch for weak-minded people who need strength in numbers), do đó giáo hội Ca-Tô vẫn giữ thái độ tự tôn trịch thượng vô lối đối với các tôn giáo khác. Nhưng thái độ đó chỉ để cho giáo hội và các con chiên ngu ngơ tự sướng, chứ người ngoài đạo nay đâu có coi giáo hội là cái gì. Ngày nay thực chất Giáo hội Ca-tô chỉ còn cái vỏ để lừa bịp đám giáo dân thấp kém, còn cái ruột thì đã ung thối từ bao thế kỷ, từ cái lịch sử tàn bạo đẫm máu của các cuộc thập ác chinh, tòa án xử dị giáo, săn lùng tra tấn và thiêu sống những người giáo hội cho là phù thủy, kỳ thị giết người Do Thái v…v…. trong quá khứ, và những xì-căng-đan động trời trên khắp thế giới gần đây.
Vậy chiêu bài “đối thoại chân thành” của Vatican là như thế nào.  Chúng ta có khá nhiều tài liệu về mánh mưu truyền đạo bất kể thủ đoạn và đạo đức của Vatican.  Tuy nhiên, ngày nay trên thực tế, Tây phương đã bị coi như là một lục địa “hậu Ki-tô” (Post Christian), còn ở Á Châu thì nỗ lực truyền đạo của Ca-tô Giáo chỉ vơ vét được đám cùng đinh và cướp đi linh hồn của vài người sắp qua đời hay đã qua đời. Giám mục John Shelby Song đã nhận định:
Sự kiện vẫn là mọi hoạt động truyền giáo, được hỗ trợ bởi quyền lực kinh tế và chính trị của các nước thực dân, vẫn còn tương đối không thành công. Bất cứ ở nơi nào mà có một truyền thống tôn giáo mạnh, thuần nhất thí dụ như là ở ấn độ, trung quốc, nhật bản, sự xâm nhập của ki tô giáo chỉ ở mức tối thiểu.. Ấn độ giáo vẫn là tôn giáo chủ lực của tiềm lục địa á châu, và phật giáo vẫn ngự trị trung quốc và đông nam á cho đến ngày nay. Ki tô giáo chẳng có mấy thành công trong việc truyền giáo ở các nơi này mặc dù đã có những nỗ lực lớn lao...
Các dữ kiện (về hoạt động truyền giáo) đã chứng tỏ rất rõ là mục tiêu cải đạo thế giới vào đức tin ki tô của ki tô giáo đã là một sự thất bại rất đáng kể ở khắp mọi nơi... Thật ra, ngày nay tỉ lệ số tín đồ ki tô trên thế giới còn ít hơn là ở thời trước đây của lịch sử ki tô giáo.
(..The fact remains that all this missionary activity, buttressed by the economic and political power of the colonial nations, was still relatively unsuccessful.  Wherever there is a strong unified religious tradition, such as that which marked India, China, and Japan, for example, the Christian inroads were minimal... Hinduism still is the dominant religion of the Asian sub-continent, and Buddhism dominates China and Southeast Asia to this day.  Christians enjoyed little missionary success in these places despite massive efforts..
The data make it very clear that the Christian goal of converting the world to Christ has been a significant failure everywhere...In fact, the world has a smaller percentage of Christians in it today than it did earlier in its history.
(BISHOP JOHN SHELBY SPONG,  A New Christianity For A New World, 2001, pp. 176-77.)
Sự cuồng tín và đạo đức giả của Vatican là vẫn khuyến khích các tu sĩ Ca-tô theo đuổi chính sách “ngu dân dễ trị” của Giáo hội, dấu kín những thông tin bất lợi về giáo hội, đồng thời còn đẩy mạnh việc loan báo tin mừng cứu rỗi cho đám dân ngu dốt.  Điều hiển nhiên là ngày nay đa số giáo dân, kể cả những trí thức Ca-tô như Nguyễn Anh Tuấn, Lữ Giang, Chu Tất Tiến, Vũ Linh Châu, Hồng Lĩnh, Trần Đình Ngọc v…v…. và ngay cả một số linh mục , giám mục, vẫn không đọc Thánh Kinh, vẫn chỉ biết lõm bõm những đoạn vụn vặt trong Thánh kinh dùng để truyền đạo, tự giam giữ mình trong vòng ngu si mà giáo hội muốn.  Nếu tín đồ Ca-tô không đọc Thánh Kinh thì không thiếu gì người ngoại đạo, và ngay cả những bậc trí thức có lương tâm trong giáo hội, đã đọc kỹ Thánh Kinh và đã vạch ra, không những sự bất lương của giáo hội Ca Tô trong việc uốn nắn và giam giữ đầu óc giáo dân mà còn cả những sai lầm chứa đầy trong Thánh Kinh.
Điều quái gở là một số thuộc hạ Việt Nam của Ngài cũng theo cùng một sách lược bất lương trí thức của Vatican như chúng ta thấy rõ trong những tác phẩm như Chứng Nhân Hi Vọng của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, 2000 Năm Một Thuở: Chứng Từ của Một Số Người Công Giáo, Tin Nhà Paris xuất bản, hay trong các báo như Hiệp Nhất, Diễn Đàn Giáo Dân v..v... trong đó chứa toàn là những trích dẫn vụn vặt, lạc lõng từ Thánh Kinh.
Thật ra, không phải là cuối thế kỷ 20 Ki Tô Giáo mới đưa ra sách lược “đối thoại” với các tôn giáo phi-Ki-tô.  Sách lược này đã được hoạch định từ sau Công Đồng Vatican II (1962-1965) của Ca Tô Giáo Rô Ma với những huấn thị rõ ràng trong những bản văn mật của Tòa Thánh gửi cho các giám mục địa phương ở Á Châu.  Và Tin Lành cũng dựa theo sách lược này để đi cải đạo thế giới.  Những miền đất xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ki Tô Giáo trong những thập niên 1970-80 là ở Ấn Độ và Thái Lan, lợi dụng tinh thần khoan nhượng tôn giáo của hai quốc gia này.  Từ cuối thế kỷ 20, mục tiêu hàng đầu của Ca Tô Giáo Rô Ma là Việt Nam, nấp sau những chiêu bài chỉ có trên mặt văn tự như nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo v..., lợi dụng tình trạng xã hội kinh tế ở Việt Nam, sự khoan nhượng của chính quyền Việt Nam, và nhất là ở đó họ đã có sẵn một đạo quân thứ năm cuồng tín, chưa mở mang trí óc như những tín đồ Tây phương, nên vẫn cam phận làm tôi tớ cho Vatican, quên mình trong vâng phục, thi hành mọi mệnh lệnh của Vatican, do đó sẵn sàng phản bội quốc gia như trong quá khứ, để đánh đổi lấy một chỗ trên “thiên đường” (nhà ở trên trời)  mà thực chất chỉ là một “hoang đường” (nhà hoang)  như chính giáo  hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới.
Thái Lan là một quốc gia Phật Giáo.  Lợi dụng tinh thần khoan dung tôn giáo của dân Thái, giáo hội Ca Tô ở Thái, tuy chỉ chiếm chưa tới 1% dân số, đã có những hành động xâm nhập chống phá Phật Giáo và phổ biến những tài liệu có tính cách hạ thấp dân Thái và Phật Giáo. Để độc giả có một ý niệm về bản chất cuồng tín của các nhà truyền giáo Ki Tô ngay trong thời đại này, tôi xin trích dẫn một đoạn trong cuốn Missionaries, trg. 186, nói về phương cách truyền giáo của Ca Tô Giáo ở Thái Lan:
"Ở Á Châu, không có mấy nước mà các thừa sai cảm thấy hoàn toàn tin tưởng là công vụ truyền giáo của họ sẽ không bị gián đoạn trong tương lai.  Ngay cả dân Thái  cũng  nhạy  cảm đối  với  vấn đề  thừa sai  nếu sự truyền giáo không khéo xử, thái độ khoan dung của dân Thái có thể thay đổi.  Hiện nay, trong một nước mà 97 phần trăm theo Phật Giáo, 2 phần trăm theo Hồi Giáo, số người theo Ki Tô Giáo hiển nhiên rất ít.
Sulak Siravaksa là một trí thức Phật Giáo theo học các trường Ki Tô.  Tuy nhiên, ông ta rất lấy làm khó chịu trước những tài liệu truyền giáo mô tả Thái Lan là "địa hạt của Satan"; rằng "99% dân Thái bị câu thúc bởi ma quỉ"; lên án Phật Giáo là "thờ hình tượng" và là "một tôn giáo yếm thế một cách vô vọng.";  và chấp chặt là "không có sự mặc khải của Ki Tô thì không hiệp thông được với Thượng đế."  Như Sulak đã vạch rõ,  đó là ngôn ngữ hàng ngày của một số tài liệu truyền giáo, những tài liệu này đã xúc phạm nặng nề đến những Phật tử Thái Lan."
  (In Asia there are few countries where missionaries can feel completely confident of an uninterrupted future for  their  work. Even  the  Thais  are  sensitive  on  the subject of missionaries and if evangelism is not carried out in a tactful manner, their tolerant attitude may change.  At present, in a country where 97 percent of the population is Buddhist and 2 percent Muslim, there are obviously very few Christians.
Sulak Sivaraksa is a Buddhist intellectual who was educated in Christian schools.  He is, however, severely irritated by evangelical literature that describes Thailand as "the territory of Satan"; that declares "99 percent of Thais are in bondage to demons"; that condemns Buddhism  as  "idolatry" and "a  religion  of  hopeless escapism"; and which insists that "without Christian revelation, there is no relationship with God".  As Sulak points out, this is the everyday language of a certain kind of mission literature, which is deeply offensive to Thai Buddhists.)
Những điều này, không ít thì nhiều, cũng đã  xẩy ra ở Việt Nam, nhất là do bọn Tin Lành ngu si cuồng tín  qua cái Tuyên Ngôn Thuộc Linh. Thái độ khoan dung của người dân Việt có thể thay đổi nếu Ca-tô Giáo vẫn xuyên tạc chống phá Phật Giáo cùng lúc gây loạn trong xã hội.  Người con Phật, với tinh thần vô úy, phải có bổn phận vạch ra những thủ đoạn xuyên tạc hạ cấp của Ki Tô Giáo đối với Phật Giáo và truyền thống dân tộc, và quảng bá rộng rãi để cho quần chúng ý thức được hiểm họa của Ki Tô Giáo. 
Vì  chính sách truyền đạo cuồng tín cố hữu như trên tại Thái Lan mà Phật Giáo Thái đã phải chính thức gửi kháng thư cho  John Paul II,  phàn nàn  về những  việc làm sai trái của Gia Tô Giáo ở Thái Lan.  Những tài liệu trong cuốn "Âm Mưu Của Ca Tô Chống Phá Phật Giáo” (The Catholic Plot Against Buddhism, Printed by Siva Phorn Limited Partnership, Bangkok, Thailand, 1986)  cho chúng ta thấy rõ, qua những huấn thị mật của Vatican, sách lược cải đạo Á Châu bất kể thủ đoạn đã được hoạch định từ ngay sau Công Đồng Vatican II. 
Sự chống phá của Ca Tô Giáo lên tới mức độ mà người dân Thái bắt buộc phải có phản ứng.  Ngày 10  tháng 5, 1984, và sau đó, ngày 12 tháng 9, 1984, Hiệp Hội Bảo Vệ Đạo Pháp Thái Lan cũng như nhiều hội đoàn Phật Giáo khác đã gửi cho Giáo hoàng John Paul II những kháng thư nhân dịp ông tới Thái Lan.  Sau khi phàn nàn về việc Giáo hội Ca Tô Rô Ma tại Thái Lan xâm nhập Phật Giáo với nhiều hành động sai trái, theo  chỉ thị của Vatican, có bằng cớ dẫn chứng (The Roman Catholic Church in Thailand has intruded Buddhism  with many  injust  actions  as shown  in  the attached Protesting Memorandum), Hiệp Hội  yêu cầu John Paul II ra lệnh cho các tín đồ Ca Tô hãy chấm dứt xuyên tạc và phá Phật Giáo (To stop the Catholics here in Thailand from distorting and subverting Buddhism).  Những phản ứng của người dân Thái Lan đối với giáo hoàng John Paul II như nước đổ đầu vịt, vì truyền thống của Vatican là ù lì, coi những phản ứng này như không có, và cứ tiếp tục thi hành sách lược cải đạo bất lương và bất chính của mình.  Vài tài liệu sau đây có thể chứng minh được điều trên.
Sau đây là phần Dẫn Nhập trong cuốn "Âm Mưu Của Ca Tô Chống Phá Phật Giáo”(The Catholic Plot Against Buddhism, Printed by Siva Phorn Limited Partnership, Bangkok, Thailand, 1986).  Đây là một bản văn khá quan trọng với nhiều chi tiết có thể giúp Phật Giáo Việt Nam  thấy rõ vấn đề hơn và do đó tìm ra một đường hướng thích hợp để đối phó với kế hoạch xâm lăng văn hóa và tôn giáo tại Á Châu:
“Những tín đồ Ca Tô Rô Ma đến Thái Lan trong triều đại của Đại Đế Narai vào khoảng 300 năm trước.  Ngày nay có khoảng hơn 100,000 tín đồ Ca-Tô (vào khoảng 2 phần ngàn của một dân số trên dưới 50 triệu. TCN), một con số rất nhỏ đối với giáo hội.
Trong quá khứ những người Ki Tô Giáo tin rằng những tôn giáo khác với Ki Tô Giáo, như Phật Giáo chẳng hạn, đều là tội lỗi, là giáo lý của Ác Thần và Satan.  Do đó, Giáo hội đã phái những linh mục Ca Tô để dạy dỗ những kẻ ngoại giáo, giới thiệu Gót cho họ, và cải đạo họ.  Những người này bị dẫn dụ vào Ki Tô Giáo bằng cách tấn công Phật Giáo và các tôn giáo khác là xấu xa và sai lầm trong giáo lý.  Phương pháp cải đạo này gọi là “truyền giáo”.
Khoảng một thập niên trước đây, người Ca Tô thay đổi chiến thuật.  Các linh mục Ca Tô không tấn công Phật Giáo nữa.  Cả hai giới, linh mục và tín đồ, đều trở nên thân thiện và cùng với các Phật tử phục vụ xã hội. Họ đã điều chỉnh để sống thích nghi với nền văn hóa Thái và bắt chước những lễ tiết Phật Giáo. Phương pháp Thiền của Phật Giáo đã được nghiên cứu và thay đổi làm Thiền của Ki Tô Giáo.  Nhiều cuốn sách mới được viết ra để giảng giải Ki Tô Giáo bằng những thuật  ngữ Phật Giáo, khai thác và bóp méo giáo lý Phật Giáo.  Đó là những hiện tượng mới lạ đáng để ý.
Những sự thay đổi trong thái độ và thực hành mới của những người Ca Tô là kết quả của Công Đồng Vatican II, họp từ 11/10/1962 đến 8/12/1965. Công Đồng Vatican II đã được sửa soạn từ năm 1959.  Công đồng diễn tiến nghiêm trọng và liên tục trong ba năm trên. Giám mục khắp nơi trên thế giới và nhiều nhân viên lãnh đạo khác, tất cả vào khoảng 4000 người, được động viên để tổng hợp những quan niệm mới và điều chỉnh những phương pháp tuyên truyền cho phù hợp với những thay đổi trong thế giới hiện đại.  Nhiệm vụ của các giám mục được nhấn mạnh, nghĩa là, ngoài những công việc trong giáo xứ của mình, họ còn phải theo đúng chính sách của giáo hội mẹ (Vatican) như Công Đồng Vatican II đã quyết định.  Mọi quyết định của Công Đồng phải được áp dụng nghiêm chỉnh và phải thực thi bởi mọi giáo hội Ca Tô khắp hoàn cầu trong những thập niên tới cho đến khi Công Đồng Vatican tới được triệu tập. (Công Đồng Vatican thứ nhất được tổ chức trên 100 năm trước, từ tháng 12, 1869 tới tháng 7, 1870, có hơn 7 tháng và số tham dự viên chỉ vào khoảng 1000).
Một chủ đề quan trọng của Công Đồng Vatican II là xét và hoạch định chính sách tiếp cận mới với mọi tôn giáo phi Ki-Tô, quyết định của chính sách này là Bản Tuyên Ngôn Về Những Giao Hệ Của Giáo Hội Đối Với Những Tôn Giáo Phi Ki-Tô.
Trong bản Tuyên Ngôn của CĐ  Vatican II, một loại giao hệ mới đối với các tôn giáo khác, gọi là “Đối Thoại”,  đã được thiết lập.  Một hậu quả khác là, Giáo Hoàng, người đứng đầu giáo hội, đã lập ra “Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ” chịu trách nhiệm về đối thoại.  Sau đó Bộ này đã phát hành những “Bản Tin”, một ấn phẩm mật để liên lạc với các giám mục và giới chức cao cấp đang hoạt động trong các quốc gia khác nhau.  Bản Tin chứa đựng những tin tức từ Vatican liên quan đến các tôn giáo khác và các tín đồ của họ.  Những ý tưởng và cách thực hành sự đối thoại được ban bố, cùng những hiểu biết về các tôn giáo khác để dùng làm căn bản cho sự đối thoại, gồm những bản phúc trình về tình hình tôn giáo ở các địa phương, nơi các linh mục hành nghề.  Bản Tin được dùng làm diễn đàn trao đổi những kinh nghiệm của các linh mục hoạt động trong những quốc gia khác nhau.
Bản Tuyên Ngôn của CĐ Vatican II cùng với những giải thích và khuyến cáo trong Bản Tin, những quan niệm mới và cách tiếp cận mới những tôn giáo phi Ki-Tô chứng tỏ rằng, thay vì coi các tôn giáo khác như một mớ những sai lầm và là hoa trái của tội lỗi như trong quá khứ, thái độ mới là chấp nhận những cái hay cái đẹp trong các tôn giáo khác, coi tất cả những thứ đó đến từ Gót.  Chỉ  có Ki Tô Giáo, tôn giáo của Gót, là đầy đủ.  Các tôn giáo khác là sự pha trộn của tốt và xấu, sự thực và sai lầm, nhưng chúng có thể được dùng như là một phương tiện để cho chúng trở thành hoàn hảo trong Ki Tô Giáo.  Do đó, sự chân thật trong các tôn giáo khác có thể là khởi điểm để làm cho những người ngoại đạo trở thành tín đồ Ki Tô Giáo...
Đối thoại phải được hiểu như là coi nhau như bình đẳng, và không toan tính cải đạo người khác vào tôn giáo của mình.  Tuy nhiên, sau khi xét kỹ những ấn phẩm mật của Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ, sự đối thoại này thật đáng nghi ngờ.  Nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng trong sự đối thoại (của Vatican), sự hợp tác, cùng chung sức, hiểu biết lẫn nhau và thỏa hiệp không phải là những mục tiêu thật.  Đó chỉ là những phương tiện hoặc chiến thuật để đạt những mục tiêu khác.  Vatican có hai cơ quan, mỗi cơ quan có những trách nhiệm khác nhau.  Một cơ quan là Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin có nhiệm vụ “Truyền Giáo” và cơ quan kia là Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ có nhiệm vụ “Đối Thoại”.  Hiển nhiên là đối thoại không thay thế cho truyền giáo mà bổ túc cho truyền giáo.  Đối thoại là phương tiện dọn đường cho truyền giáo, nó đi trước truyền giáo.  Trong trường hợp có thể truyền giáo được ngay, phương pháp truyền giáo được dùng.  Nhưng, nếu tình hình chưa sẵn sàng cho phép truyền giáo, đối thoại được sử dụng.  Quý vị nào muốn biết về sự thật này thì hãy đọc kỹ những tài liệu đã có.  Đối với những vị  nào không có cơ hội đọc hết những tài liệu, những điểm quan trọng được trích dẫn sau đây sẽ giúp quý vị rất nhiều để làm sáng tỏ những mục đích thật sự của những hoạt động Ca-Tô.
Hầu hết những tài liệu trích dẫn ở đây được viết bởi những giới cao cấp của Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ, nghĩa là, Bộ Trưởng, Tổng Thư Ký và Phó Tổng Thư Ký.  Do đó, chúng phải được coi như là chính sách chính thức và kế hoạch hành động của Giáo hội Ca-Tô.
Vatican, tổng hành dinh của giáo hội Ca Tô, là một quốc gia độc lập, có chính phủ.  Giáo hội Ca-Tô tại Thái Lan là thuộc hạ của Vatican.  Muốn hiểu mọi điều liên quan đến Giáo hội Ca-Tô tại Thái Lan, chúng ta cần hiểu về mạng lưới hoạt động của Vatican.
Đối thoại được đề xướng bởi những người Ca-Tô và họ là những người diễn xuất màn đối thoại, Phật tử là đối tượng của những hành động này và bị lừa dối để bị kéo vào cùng diễn xuất trong màn đối thoại.  Chính là những người Ca Tô đã thay đổi những cách tiếp cận của họ trong khi tự bao giờ các Phật tử vẫn luôn luôn thân thiện.  Lẽ dĩ nhiên là những diễn xuất viên Ca Tô phải sửa soạn trước với những ý tưởng, kế hoạch và nhân sự cho cuộc đối thoại.  Trong trường hợp như vậy, Phật tử trở thành đối tượng của đối thoại.  Nếu những mục đích bất lương, che dấu, đi kèm với đối thoại, chắc chắn Phật tử sẽ trở thành những nạn nhân.
Một sắc thái quan trọng của đối thoại là sự hiểu biết lẫn nhau.  Là những người khởi xướng, những người Ca-Tô đã nghiên cứu kỹ về Phật Giáo để sẵn sàng cho cuộc đối thoại.  Họ biết về Phật Giáo rất rõ trước khi đối thoại.  Trái lại, tuy các Phật tử đã nhận được sự thân thiện từ người Ca Tô và “liên tôn” với những người Ca Tô, có vẻ như họ không biết gì nhiều về người Ca Tô và những mục đích thật sự của chúng.  Do đó, Phật tử cần phải tìm hiểu để có thể có được một sự hiểu biết lẫn nhau.  Nếu thấy rằng trong cuộc đối thoại người  Ca Tô có những động cơ kín đáo, chúng ta, các Phật tử, phải khuyến cáo họ hãy lương thiện, thẳng thắn và thành thật đối với chúng ta.
Ít nhất, khi liên kết với ai, chúng ta nên biết người đó là ai, họ nhìn chúng ta ra sao, họ nghĩ về chúng ta như thế nào và họ muốn gì ở chúng ta, để chúng ta có thể xử sự một cách khôn ngoan...Lao đầu vào một cuộc đối thoại mà không biết gì và thiếu hiểu biết, cái mà chúng ta được không thấm vào đâu so với cái mà chúng ta mất trong tương lai xa.
Tất cả những tài liệu cho Giáo hội Ca Tô, từ Vatican cũng như tại Thái Lan, đều đưa đến kết luận là, đối thoại chỉ là một chiến thuật để thực hiện những kế hoạch của Giáo hội Ca-Tô để đồng hóa Phật Giáo vào Ki Tô Giáo.  Âm mưu này có thực hiện được hay không còn tùy thuộc ở các Phật tử có ý thức được hay không những động cơ trong mối giao hệ với người Ca Tô và biết xử sự như thê nào trong mối giao hệ này.  Điều này tùy thuộc ở nhận định của người Phật tử.  Ở đây, chỉ có một số trích dẫn từ những tài liệu của Giáo hội Ca Tô được đưa ra cho độc giả tham khảo.
 Mục đích của cuốn sách này là khuyến cáo các Phật tử và thức tỉnh họ trước tình trạng hiện nay để , trước hết, họ có thể có những thái độ thích đáng trong cương vị của người đi tiếp cận hay người được tiếp cận.  Thứ đến, nguy cơ sẽ đến với Phật Giáo nếu các Phật tử coi thường, không cập nhật, yếu và lơi là.  Không bỏ buông, Phật Giáo không thể bị ai làm hại.  Mọi nguy cơ, dù hiển lộ hay che dấu, cần phải được sử dụng làm động cơ thúc đẩy người Phật tử tự mình cải tiến trong việc tu học và hành trì ngõ hầu họ có thể tin ở Phật Pháp và hoạt động với lương tri để giúp mọi người có hạnh phúc.
  Cũng nên ghi là hiện nay, những giáo hội Tin Lành cũng đã thường sử dụng những chiến thuật  và kỹ thuật tương tự của “Đối Thoại”.
(INTRODUCTION:  The Roman Catholics came to Thailand in the reign of King Narai the Great about 300 years ago.  There are now a little over 100,000 Catholics, the number considered very small by the Church.
In the past the Christians believed that other religions than Christianity, such as Buddhism are sinful, the teachings of Evil and Satan.  Therefore, the Church has been sending Catholic priests to teach the pagans, introducing God to them, convert them.  They were induced into Christianity by attacking Buddhism and other religions as being evil and wrong teachings.  This method of converting is called Mission.
About a decade ago, the Catholics changed their strategies.  The Catholic priests no longer attacked Buddhism.  Both Catholic priests and laymen have become friendly and joined with the Buddhists in rendering services to the society.  They have been adjusting themselves to the Thai culture and imitating Buddhist ceremonies.  Buddhist mediatation has also been studied and modified into Christian one.  New books have been written to explain Christianity in Buddhist vocabulary, exploiting and distorting Buddhist doctrines.  These are new, strange and intersting phenomena.
These changes in attitudes and practices of the Catholics are the results of Vatican Council II, which was held from 11 October 1962 to 8 December 1965.  The preparation for Vatican Council II had been made sice 1959.  The Council was carried out seriously and continuously over these three years.  The bishops all over the world and other top qualified personnel approximately 4,000 in number were bobilized to synthesize new concepts and adjust their methods of propagation to suit the changes in the modern world.  The responsibility of bishops was emphasized, that is, beside their work in their own diocese, they also have to follow the policy of the Mother Church (Vatican) as resolved in Vatican Council II.  All the resolutions of the Council must seriously be adhered to and put into practice by all the Catholic churches all over the world throughout all the coming decades until the next Vatican Council takes place.  (The first Vatican Council took place over a hundred years ago, that is, during December 1869 to July 1870 which took only a little over seven months and the participants were fewer than 1000 persons).
One important theme of Vatican Council II was the consideration and lay-out of the policy on and new approaches to all non-Christian religions, the resolution of which was: The Declaration on the relations of the Church with non-Christian religions.
In this declaration of Vatican Council II, a new kind of relationship with other religions called the “DIALOGUE” has been established.  Another consequence was that, the Pope, Head of the Church, set up “Secretariat for Non-Christians” to be responsible for the dialogue.  Later on the Secretariat has issued “Bulletin”, a confidential publication to communicate with bishops and higher priests who are working on different countries.  The bulletin contains news from the Vatican concerning other religions and their followers.  Ideas and practices of the dialogue are given, as well as knowledge concerning other religions to be used as bases for the dialogue, including reports on religious situations in the localities where the Catholic priests work.  The bulletin serves as field for exchanges of experiences of the priests working in different countries.
The declaration of Vatican Council II together with explanations and advices given in the bulletin, new concepts and new approaches of the Church to non-Christian religions show that instead of looking at other religions as  the mass of errors and the fruit of the sins of men as in the past, the new attitude is to accept all the beautiful and good in other religions, all of which are to be regarded as coming from God.  Only the Christian religion, the religion of God, is complete.  Other religions are mixture of good and bad, truths and falsities, but they can be used as means to consummate in Christianity.  Therefore, the true and the good in other religions can be the starting point to make pagans become Christians...
  The dialogue is to be understood as a looking at each other as equals, and not to attempt to convert other persons to one’s religion.
However, after considering the confidential publication of the Secretariat for non- Christian, this is dubious.  Evidences show that in the dialogue, cooperation, collaboration, mutual understanding and compromise are not the the real objectives.  They are only means or strategies leading to other objectives.  Since there are two organizations, each having different responsibilites, one is the Sacred Congregation of Propaganda Fide which is responsible for “MISSION” and the other is the Secretariat for non-Christians which is responsible for “DIALOGUE”, it is evident that the dialogue is not substituting the mission but to complement it.  The dialogue is a means to pave the way for the mission; it foregoes the mission.  In cases where the mission can take place immediately, the mission method can be employed.  But, if the situation is not ready, the dialogue has to be used.  Those who want to know the truth about this can examine different available documents.  For those who do not have opportunity to follow through all the documents, the important points quoted in this book will greatly help to clarify the real purposes of the Catholic activities.
The documents quoted here are mostly written by high ranking officials of the Secretariat for non-Christians, i.e., the Chairman, the Secretary General and the Deputy Decretary General.  Therefore, they are to be regarded as the official policy and work plan of the Catholic Church.
The Vatican which is the center of the Catholic Church is an independent state.  It has its own government.  The Catholic Church in Thailand is subordinate to the Vatican.  To understand all concerns the Catholic Church in Thailand, it is necessary to understand the network of the Vatican.
The dialogue is initiated by the Catholics who perform the actions, the Buddhists are the objects of the actions and are deceived to join in the performance.  It is the Catholic who changed their approaches while the Buddhists remain friendly as ever.  It is natural that the performer of the actions will have prepared themselves with ideas, plans and personnel for the dialogue.  In such a situation, the Buddhists become the objects of the dialogue.  If hidden unhonest purposes are attached to the dialogue, the Buddhists will certainly become victims.
  One important characteristic of the dialogue is mutual understanding.  As initiators, the Catholics have made a thorough study of Buddhism to prepare themselves for the dialogue.  They accordingly know the Buddhists very well before they start the dialogue.  On the contrary, though the Buddhists have received the friendship and joined with the Catholic to a large extent, they do not seem to know much about the Catholic and their real motives.  Hence, the Buddhist need to study it in order to obtain mutual understanding.  If it is found that in the dialogue the Catholics have ulterior motives, we, the Buddhists, can warn them to be honest, candid and sincere to us.
  At least, in associating with anybody, we should know who he is, how he looks at us, what he thinks of us and what he wants from us, so we can act wisely...  In entering the dialogue with ignorance and lack of understanding, what is gained will not cover the loss in the long run.
All the documents of the Catholic Church, both from the Vatican and in Thailand, inevitably lead to a conclusion that the dialogue is a strategy to carry out the plans of the Catholic Church to assimilate Buddhism into Christianity.  That this plot will be realized or not depends on whether the Buddhists aware of the motives of the relationship and know how to act in the relationship.  This is up to the discernment of the Buddhists.  Here, only the classified excerpts from the documents of the Catholic Church will be given for consideration of the readers.
The purpose of this presentation is to warn the Buddhists and awaken them to the situation so that, in the first place, proper attitudes can be made whether is the approacher or the approached.  Secondly, dangers to Buddhism will arise if the Buddhists are negligent, not up to par, weak and slackened.  Without carelessness, Buddhism can not be endangered by anybody... Any danger, whether open or hidden, which has arisen should motivate the Buddhists to improve themselves both in their studies and practices, so that they will be confident in the Dhamma and work conscientiously to help people to really become happy.
It should be noted that at present the Protestant Churches have also been utilizing similar strategies and techniques of the Dialogue.)
Qua tài liệu trên của Phật Giáo Thái Lan, chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm gì? 
Đối với người Việt Nam, chúng ta cần phải ý  thức được rằng chiêu bài “đối thoại” hay “liên tôn” của Ca Tô Giáo Rô Ma chỉ là những bình phong chiêu dụ những người Phật tử nhẹ dạ, ngây thơ, kém hiểu biết, hám danh, lao đầu vào cái bẫy của Ca Tô Giáo Rô Ma mà không biết đến những âm mưu của họ trong chính sách xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu, cũng như không biết rằng mục đích chính của Ca Tô Giáo Rô Ma không phải là “đối thoại” hay “liên tôn” mà chỉ là những chiến thuật giai đoạn nhằm mục đích truyền bá Ki Tô Giáo bằng những lời lừa bịp cố hữu.  Cũng may, số Phật tử này không nhiều, không có uy tín trong quần chúng, thực chất chỉ là, hoặc những con nội trùng kém đạo đức trong Phật Giáo, hoặc kiểu “theo đạo có gạo mà ăn”,nên ảnh hưởng hay kết quả những cuộc  hợp tác “đối thoại” hay “liên tôn” của họ với Ca Tô Giáo có thể nói là không đáng kể, không cần phải quan tâm.  Tuy vậy, Phật tử cũng không nên vì  thế mà lơi là, không chịu tìm hiểu kỹ các vấn đề, áp dụng hạnh từ bi một cách thiếu sáng suốt, và để mặc cho Ca Tô Giáo tự tung tự tác trong sách lược cải đạo Á Châu
Chúng ta cần phải vạch trần âm mưu dùng “đối thoại” để “loan báo tin mừng cứu rỗi” và thực chất cải đạo của Ki Tô Giáo cho quần chúng biết rõ, báo động nguy cơ xâm lăng của Ca Tô Giáo, và nhất là buộc những người Ca Tô phải lương thiện, thẳng thắn và thành thật đối với chúng ta qua những hành động cụ thể chứ không chỉ có trên đầu môi chót lưỡi hay trên mặt văn tự.
Ví dụ, người Ca Tô ngày nay nói rằng họ có tinh thần dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc.  Vậy hành động cụ thể của họ phải là từ bỏ tinh thần nô lệ Vatican, từ bỏ lệ thuộc Vatican về hành chánh cũng như về vấn đề tâm linh, vì thực chất Vatican là một ngoại bang, và tinh thần dân tộc Việt Nam là không bao giờ chịu nô lệ ngoại bang, và văn hóa Việt Nam thì không bao giờ có thể tương hợp với văn hóa Ca Tô.  Đây là điều kiện tiên quyết để có thể chấp nhận người Ca-tô trong lòng dân tộc.
Bài Dẫn Nhập trong cuốn Âm Mưu Của Ca Tô Chống Phá Phật Giáo ở trên ghi là có những tài liệu trích dẫn từ những ấn phẩm mật của Vatican.  Hiển nhiên ở đây tôi không thể nào kê ra hết những tài liệu trích dẫn đó mà chỉ có thể đưa ra một số trích dẫn điển hình để chúng ta thấy rõ sách lược truyền đạo của Vatican.  Trong cuốn Âm Mưu Của Công Giáo Chống Phá Phật Giáo, những tài liệu trích dẫn phần lớn là từ những Bản Tin (Bulletin) mật của Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ, và được đánh số ví dụ như (1: 4-5) có nghĩa là từ Bản Tin Số 1, trang 4-5.
► Trước hết là một huấn thị từ Tổng Thư Ký Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ P. Humbertclaude:
Vì tất cả những việc của chúng ta phải được thi hành với sự thỏa thuận của các giám mục xứ và qua họ, một phương tiện tiếp xúc với họ (Bản Tin) là điều cần thiết.  Đây là những nét đại cương:  chúng sẽ được cải tiến cùng với kinh nghiệm và cùng với những đề nghị mà Bộ trông đợi từ nhiều người đọc Bản Tin của Bộ. (1: 3)
Thật là rất quan trọng cho lợi ích chung cũng như cho tương lai của Bản Tin, mọi người phải ý thức được rằng đây là một ấn phẩm mật dành riêng cho các giám mục xứ và cho những cá nhân mà các giám mục hay Bộ đã chỉ định trong nhiệm vụ đối thoại.  Nếu khi nào mà các giám mục xứ tin rằng cần phải in lại toàn phần hay một phần của bài nào hay văn kiện liên lạc nào họ có thể làm như vậy mà không được nêu xuất xứ. Vì đây là một ấn phẩm mật, không được thông báo cho báo chí. (1: 4-5)
(Since all of our work must be done with the agreement of the Ordinaries and through them, an instrument of contact was  necessary.  Here it is its general outines: it will improve with experience and also with the suggestions that we await from many of our readers. (1: 3)  
It is extremely important for the common good, as well as for the future of the Bulletin itself, that everyone be well aware that it is a confidential publication exclusively for Ordinaries and for persons that the Bishops or we have designated for dialogue.  If then the Ordinaries believe it useful to reprint entirely or in part a certain  article or communication they should do so without citing the source.  Since it is a confidential publication, the press should not be informed. (1: 4-5))
Đoạn (1: 3) chứng tỏ Vatican đã chỉ đạo đường hướng hoạt động của các giám mục địa phương và đường hướng này sẽ được thay đổi tùy theo tình hình địa phương qua hồi ứng của các giám mục địa phương.  Đọc tiếp những tài liệu trích dẫn từ những Bản Tin mật của Vatican chúng ta thấy rõ Vatican đã chỉ thị cho các giám mục địa phương và mọi tín đồ Ca Tô phải nghiên cứu kỹ tình hình Phật Giáo và dân tình địa phương để từ đó Vatican sẽ hoạch định những kế hoạch xâm lăng văn hóa và tôn giáo thích ứng. 
Vậy thực chất các giáo hội địa phương, dưới quyền các giám mục địa phương,  chỉ là những ổ gián điệp nằm vùng trong các quốc gia phục vụ cho Vatican, một ngoại bang.  Điều này chúng ta có thể thấy rõ ngay trong đoạn (1: 4-5) ở trên:  Tại sao một Bản Tin liên lạc với các giám mục địa phương của Ca Tô Giáo, một “tôn giáo” tự coi là thiên khải, tông truyền v..v.. có nhiệm vụ mang “Tin Mừng” đến cho nhân loại, lại phải làm một ấn phẩm mật mà các giám mục địa phương phải tuân hành mà không được tiết lộ xuất xứ, và phải dấu báo chí, nếu trong đó không có những kế hoạch truyền đạo bất chính mà Vatican không muốn cho các tôn giáo khác biết?  Câu trả lời thật là rõ ràng: “Tin Mừng” của Ca Tô Giáo phải được rao truyền qua những phương tiện, thủ đoạn lắt léo, bất chính và “cấm ngoại thủy không ai được biết”.  “Nói có sách, mách có chứng”, tôi không có nói vu vơ. Phần phân tích một số tài liệu mật của Vatican về sách lược cải đạo Á Châu sẽ chứng minh điều này.  Trước hết là một nhận định tổng quát.
Những huấn thị viết trong các Bản Tin là một loạt những khẳng định vô trách nhiệm, kiêu căng vô lối, hỗn hào, láo xược, đối với các tôn giáo phi Ki-Tô, kèm theo những tiểu xảo hạ cấp để truyền đạo.
► Chúng ta hãy xét đoạn sau đây trong Bản Tin (Bulletin) số 7, trang 12:
Một chiến thuật trong cuộc bút chiến là mô tả qua loa những sự phong phú (trong các tôn giáo phi Ki-Tô) nhưng sự công nhận những sự phong phú đó không được để cho những người ngoại đạo được hưởng.  Do đó chúng ta phải công nhận giá trị theo nghĩa hòa nhập, vì tư tưởng Ki Tô Giáo là trên hết.  Trích dẫn từ những người ngoại đạo phải được chọn dựa theo Thánh Kinh: những biểu tượng (của người ngoại đạo) phải được sửa đổi để đưa vào đó khuôn mặt của Giê-su; và sau cùng làm cho những lời lẽ của ngoại đạo sẽ mang ý nghĩa khác hẳn.  Những tôn giáo ngoại đạo không có gì là quan trọng cho chính chúng, mà chỉ là cho những ốc đảo chân lý nhỏ bé có chứa trong chúng..
Xét về toàn thể, những tôn giáo và triết lý ngoại đạo chỉ là một đống những sai lầm.  Chúng là kết quả của tội lỗi con người và sau cùng là của quỷ.  Nhưng trong sự tối tăm đó cũng còn có lập lòe chút ánh sáng.  Chính trong cái ánh sáng đó chúng ta phải khám phá ra thiện chí từ những người ngoại đạo và đoan chắc chân lý của Ki Tô Giáo, vì những mảnh chân lý đó đến từ đức Ki Tô.
(It is a polemical way of describing riches glimsed, credit for which must not be left to the pagans.  So we must speak of a recognition of value but in the sense of an integration, for the Christian thought is primary throughout.  The pagan quotations are chosen with reference to Scripture: the symbols are modified to throw more into the relief the face of Jesus Christ; and finally the pagan words take on a totally different meaning.  The pagan religions have no importance for themselves, but solely for the little islands of truth which are contained in them....
Taking as a whole, the pagan religions and philosophies are for them merely a mass of errors.  They are the fruit of the sins of men and ultimately of the devil.  But in this darkness there are still some gleams of light.  In this virtue of this light that we must proceed to discover the pagans of good will and confirm thus the truth of Christianity, for those scraps of truth come from Christ.  (7:12))
Những lời huênh hoang kiêu căng vô lối lố bịch, và những lời hỗn hào, láo xược, xuyên tạc, mạ lỵ các tôn giáo phi-KiTô như trên, chỉ để tuyên truyền nhồi sọ cho đám tín đồ ngu dốt chứ đối với thế giới Tây phương và nhất là đối với giới trí thức hiểu biết, chính Ca Tô Giáo mới là một đống những sai lầm: sai lầm từ Thánh Kinh cho tới các tín lý Ca Tô, sai lầm từ nền Thần học Ki Tô Giáo cho đến những giáo lý của giáo hội Ca Tô, sai lầm từ đạo đức của các giáo hoàng xuống tới các linh mục v..v...  Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng.  Thật vậy, chân lý của Ki Tô Giáo là gì, nếu không phải là những niềm tin vào một Dê-su đã chết đi ba ngày rồi sống lại, bay lên trời, và quyền năng “cứu rỗi” của Dê-su trong ngày phán xét cuối cùng? Nhưng những niềm tin như trên ngày nay đã trở thành những điều mê tín của một thiểu số trên thế giới vẫn còn sống trong bóng tối của sự đần độn tâm linh, không theo kịp sự tiến bộ trí thức của nhân loại, do đó không biết rằng những niềm tin này đã bị đa số trên thế giới, kể cả các giới trí thức trong các giáo hội Ki Tô Giáo, và ngay cả Vatican, vứt bỏ, vì chúng không còn một giá trị nào trước những bằng chứng trong khoa học về vũ trụ, về nguồn gốc con người, về sự bất khả hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục v..v.. mà không ai ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo có thể bác bỏ được.
Nhưng vấn đề ở đây không phải là những luận điệu thiếu văn hóa của Vatican như trên mà là thủ đoạn mượn, nói nôm na là ăn cắp, những điều hay trong các tôn giáo phi Ki Tô rồi biến đổi chúng thành của Ki Tô  Giáo, một thủ đoạn không mấy lương thiện.   Mặt khác, cùng trong Bản Tin số 7, trong một đoạn sau, trước tình hình tôn giáo hiện nay của thế giới, sự thay đổi trong sách lược truyền đạo được hoạch định như sau (7:15):
Giáo hội không còn sống trong thời của những tổ phụ lập giáo.  Trong những ngày đó  giáo hội sống trong sự nở rộ trẻ trung; giáo hội công khai chứng tỏ những hứa hẹn của tương lai và sẵn sàng nhanh chóng chinh phục thế giới.  Tình hình ngày nay đã khác.  Những tôn giáo phi-KiTô góp chung lại thì có  nhiều tín đồ hơn.  Đối với tuyệt đại đa số các tôn giáo đó, có vẻ như giáo hội không còn là một sức mạnh trong tương lai.  Đó là tại sao chúng ta phải từ bỏ ý tưởng tấn công trực diện và thay thế bằng đối thoại, và tìm ra những giá trị  nội tại và những điều quý báu của mỗi giáo lý...
Thay vì nghĩ về các tôn giáo khác như là một đống những sai lầm trong đó cũng có rải rác vài chân lý, chúng ta hãy nhìn trong các tôn giáo đó những công cụ đã giúp hàng triệu người tìm thấy Thiên Chúa và ngày nay vẫn còn tìm như vậy.  Nếu chúng ta hiểu biết rõ hơn về phần vụ của những tôn giáo dân gian trong lịch sử tôn giáo thế giới thì điều này sẽ giúp chúng ta rất nhiều.
Từ đó, nhiệm vụ truyền giáo đang được phát triển trong tầm nhìn rộng rãi hơn.  Nó không còn là cải đạo cá nhân mà là, nói cho đúng ra,  cải biến chính những nền văn hóa tôn giáo khác.
(The Church is no longer living in the time of the Fathers.  In those days she was in the bloom of youth; she showed openly the promises of the future and was ready swiftly to conquer the world.  The situation is different today.  The non-Christian religions taken together have more followers.  To the great majority of these the Church does not appear to be the force of the future.  That why we must give up the idea of a frontal attack and substitute that of dialogue, while seeking the intrinsic values and the religious treasures of every creed...
Far from thinking of them as a mass of errors in which some scattered truths have survived, we must rather see in them the instruments which have helped millions of men to find God and are doing still to-day.  It will be a great help also if we have a better understanding of the part played by the pagan religions in the religious history of the world.
Since then, the missions are developing a wider perspective.  It is no longer one of converting the individual but of converting the religious cultures themselves, so to speak. (7:15))
Huấn thị cho các giám mục địa phương ở trên đã nói lên mục đích truyền đạo hay cải đạo Á Châu của Vatican là biến cải những nền văn hóa phi Ki Tô chứ không phải chỉ cải đạo cá nhân.  Đây chính là sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican.  Đối với Việt Nam, đây là một hiểm họa có thực nếu Vatican có thể thực hiện được mưu đồ của mình.  Cho nên, người Việt Nam chúng ta, nếu còn lòng yêu nước, yêu quê hương, còn tinh thần dân tộc thì bổn phận của mọi công dân là phải ý thức được hiểm họa này và phải ra sức ngăn chận âm mưu cải đạo Á Châu của Vatican, và đừng có lao đầu vào cái gọi là “đối thoại chân thành” của Ca-tô Giáo.
Nữ tu dòng CĐM xin hôn nhẫn vị đại diện ĐTC (TGM Leopoldo-Girelli) thăm Huế lần 3. Theo http://dongthanhtam.net/
Để cho vấn đề rõ ràng hơn và cũng để cho người dân biết rõ hơn về kế hoạch xâm lược văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican, sau đây tôi sẽ đi thêm vào một số chi tiết trong sách lược cải đạo Á Châu của Ca Tô Giáo Rô Ma và Tin Lành.
Thủ đoạn rất quen thuộc của Ca Tô và Tin Lành trong sách lược cải đạo Á Châu gồm hai mặt: tấn công và chống đỡ.
Trong mặt tấn công, họ dựa trên cái gọi là “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, lấy một số giáo lý của Phật giáo, xào xáo, thay đổi làm thành giáo điều của Ki Tô Giáo, đồng thời tung ra những bản văn xuyên tạc, hạ thấp Phật Giáo, mạ lỵ tăng đoàn, cố tình gây phản ứng trong Phật Giáo.  Khi Phật Giáo phản ứng để phản bác thì họ giữ im lặng, lợi dụng bản tính hiền hòa và khoan nhượng tôn giáo của người dân Á Châu, đưa ra mặt chống đỡ, tạo trong quần chúng một ý tưởng là chính Phật Giáo là phe khởi xướng cuộc tranh chấp tôn giáo, gây chia rẽ, làm mất tình hòa hợp đoàn kết quốc gia.  Ngoài ra, họ còn mua chuộc, hối lộ các chính quyền địa phương để ngăn chận sự phổ biến những tài liệu phản kháng, vạch trần âm mưu của họ, trong quần chúng.  Thủ đoạn này đã thành công phần nào ở Thái Lan và ở Việt Nam.  Người dân ít hiểu biết và ngay cả chính quyền cũng rất dễ bị lừa dối bởi thủ đoạn này, không nhận thức được bộ mặt thật của Ki Tô Giáo. 
Những mánh mưu và luận điệu tuyên truyền lừa bịp của họ không thể kể hết và phân tích trong phạm vi bài viết này.  Ở đây tôi chỉ xin trích dẫn một tài liệu của Thái Lan để từ đó chúng ta có thể suy ra những kinh nghiệm cho Việt Nam, rồi tôi sẽ phân tích vài điểm cốt yếu nhất trong luận điệu tuyên truyền lừa bịp của Ca Tô và Tin Lành. 
► Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Bản Tin số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican:
“Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô.”
(In the Buddhist countries, in order to make  its own cultural garnment, the Church can and must take on the good elements of the Buddhist tradition and transform them giving them a Christian meaning so as to adapt them to the life of the followers of Christ.)
Lấy cái hay của người khác để dùng cho mình là điều ai cũng nên làm. Nhưng dùng kỹ xảo biến đổi nó đi và nhận là của mình thì đó là trò ăn cắp ma giáo, bất lương trí thức, và chỉ có một tôn giáo như Ca Tô Giáo mới có thể làm như vậy trong suốt chiều dài lịch sử  của tôn giáo này.  Một thí dụ điển hình của trò ma giáo này nằm trong Bản Tin số 10 trên:
“Toàn thể Phật Giáo đặt căn bản trên Tứ Diệu Đế: Khổ, Nguồn gốc của Khổ, Diệt Khổ và Thoát Khổ (Khổ,Tập, Diệt, Đạo).  Tại sao sự truyền bá Phúc âm của Ki-Tô không thể cũng được thâu tóm trong bốn chân lý trên?  Sự khổ chân thật của con người là tội.  Giê-su đến để giải thoát con người khỏi khổ –tội. “
  (The whole of Buddhism is based on the four thuths: sorrow, the cause of sorrow, the destruction of sorrow and liberation from sorrow.  Why could not the spreading of the Gospel of Christ be summed up also in these four truths?  The true sorrow of Man is sin.  Jesus came to liberate Man from sorrow-sin.)
Chúng ta thấy ngay thủ đoạn xảo trá và bất lương của Ca Tô Giáo Rô Ma trong đoạn trên:  xuyên tạc ý nghĩa của  Tứ Diệu Đế, nghĩa là bốn chân lý chân thật của Phật Giáo, và biến đổi chúng thành ra hai điều mê tín hoang đường cho người Ca Tô.  Bốn chân lý cao thượng của Phật Giáo có tính phổ quát mà mọi người chúng ta có thể chiêm nghiệm hàng ngày.  Trong bài đầu, Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Tiến sĩ Phật học, đã vạch trần sự xuyên tạc của Mục sư Tống Tuyền Thịnh về ý nghĩa của “Khổ” trong Phật  Giáo.  Quan niệm về “Khổ” trong Phật Giáo không dính dáng gì đến cái gọi là “Tội” của Ki Tô Giáo, nhất lại là cái tội tổ tông hoang đường của Ki Tô Giáo mà một Giê-su hoang đường đã chuộc tội một cách hoang đường, trèo lên cây thập giá để cho người ta đóng đinh.  Còn nếu tội là tội thế gian như giáo hoàng loạn luân, linh mục hiếp dâm, nữ tu hành hạ trẻ em v..v.. trong lịch sử Ca Tô Giáo thì nếu Dê-su đến để giải thoát, nếu một người chết cách đây đã 2000 năm thực sự có thể giải thoát những tội đó cho những người sống, cho tín đồ những tội đó thì ai muốn tin cứ việc tin.  Riêng tôi, tôi không thể chấp nhận cái luận điệu quái gở, vô đạo đức đó.
Với những sách lược và thủ đoạn ma giáo nằm trong những Bản Tin của Vatican mà tôi đã trích dẫn một phần nhỏ ở trên, nay chúng ta đã hiểu tại sao những Bản Tin của Vatican lại được lệnh phải giữ “mật, không được nêu xuất xứ, và không được phổ biến cho báo chí.”
Tổng giám mục Leopoldo Girelli nói đến “đối thoại là con đường loan báo tin mừng cứu rỗi”.  Vậy chúng ta cần tìm hiểu “tin mừng cứu rỗi” là cái gì.  Ở trên chúng ta đã biết những lời thú nhận về Big Bang, về Thuyết Tiến Hóa và phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường của Giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI, vậy làm gì còn cái gọi là “tin mừng cứu rỗi” nữa.
Thật ra, “tin mừng cứu rỗi” chỉ là một câu nhảm nhí nhất trong Tân Ước: 
John 3: 16“Gót quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người [Dê-su] sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.
Sống đời đời chính là cái bánh vẽ trên trời của Ca-tô Giáo.  Thực chất, “Tin Mừng” như trên chỉ là Tin Bịp, vì Dê-su mới chỉ sinh ra cách đây 2000 năm trong khi nhân loại đã có mặt trên trái đất ít ra là vài trăm ngàn năm, vậy tất cả những người sinh ra trước Dê-su, chỉ kể trong Thánh Kinh, từ Abraham trở xuống, có ai biết đến Dê-su để mà được Dê-su cứu rỗi, để mà có cuộc sống đời đời? Xét theo câu John 3: 18 thì Dê-su đã đầy đọa tổ tiên ông bà của mình xuống hỏa ngục chỉ vì họ không biết đến Dê-su để mà tin để được cứu rỗi. Đây là câu mà theo tôi, ngu xuẩn và bậy bạ nhất trong Tân Ước, vì câu này chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Dê-su mà thôi.  Ai không đồng ý xin mời lên tiếng.  Lịch sử loài người đâu chỉ bắt đầu từ khi Dê-su 30 tuổi.  Ấy thế mà vẫn có vô số người tin vào những cái câu nhảm nhí này.
Cho nên, “Tin Mừng Cứu Rỗi” thực ra là vô giá trị đối với người hiểu biết và chỉ cần có một chút lô-gíc trong đầu.. Nhưng đây cũng chính là câu mà giáo hoàng John Paul II đã trích dẫn để trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần cứu rỗi” trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” năm 1995. Chúng ta thấy rõ bản chất “bịp” của Ca-tô Rô-ma Giáo.  Do đó, đối với giới trí thức, học giả thì vấn đề có khác:
fschwartz-webpage
Regina Schwartz
The Curse of Cain:
The Violent Legacy of Monotheism (1997),
a study of identity and violence
in the Hebrew Bible, was nominated
for a Pulitzer Prize.
-  Regina Schwartz, giáo sư dạy Thánh Kinh trong 20 năm qua tại hai đại học nổi tiếng ở Hoa Kỳ là đại học Northwestern, Illinois, và đại học Duke, North Carolina, sau nhiều năm suy tư và nghiên cứu, đã xuất bản cuốn Lời Nguyền của Cain: Di sản bạo tàn của Tôn Giáo Độc Thần (The Curse of Cain: The Violent Legacy of Monotheism), và dạy sinh viên bài học: "không làm gì có những sự thật trong Phúc Âm"(Northwestern University professor's lesson: There are no Gospel truths), nghĩa là, trong Phúc Âm không làm gì có Tin Mừng, chỉ có những huyền thoại và những hứa hẹn vô trách nhiệm mà thôi. Giáo sư Schwartz cũng nhận ra rằng:
sinh viên ngày nay tin rằng Gót là do con người tạo ra theo hình ảnh con người thay vì ngược lại. Nghĩa là, những tính nết của con người như tham lam, hẹp hòi, ghen tuông, và sợ hãi được gán cho Gót. (...students come to believe that God is more often created in the image of man than the other way around. That is, mankind's greed, pettiness, jealousies and fears are often projected onto God).
- David Voas, Giáo sư đại học tiểu bang New Mexico (New Mexico State University), trong cuốn "Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước" ("The Bad News Bible: The New Testament", trg. 1 - 2) đã viết như sau:
"Vấn đề là người ta nghĩ rằng người ta biết ở trong Thánh kinh có những gì, hoặc ít nhất là Thánh kinh chứa loại tài liệu gì.  Hầu hết đều lầm, họ  chỉ  quen thuộc với vài đoạn trích dẫn đã được giáo hội chấp thuận, và họ sẽ ngỡ ngàng khi thấy không những Thượng đế trong Cựu Ước khủng khiếp dễ sợ như thế nào, mà con của hắn  (nghĩa là Dê-Su; TCN) trong Tân Ước cũng còn ở dưới  mức hoàn hảo khá xa.  Thông điệp của Dê-su không hẳn toàn là tin mừng, thiên đường nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc chắn.  Xét về toàn bộ thì đó rất có thể là cuốn Thánh kinh mang tới tin xấu."
(The problem is that people think they know what's in the Bible, or at least what kind of material it contains.  Most of them are wrong: they are only familiar with a few church-approved extracts, and are astonished not just how awful God is in the Old Testament, but also at how much less than perfect his son seems in the New.  The message of Jesus isn't all good news; paradise is an uncertain prospect at best.  Taken as a whole, it could well be The Bad News Bible.)
Vấn nạn của các tín đồ Ca-tô Việt Nam vẫn tiếp tục mê muội về một cái bánh vẽ cứu rỗi  trên trời là họ không biết gì về những diễn biến ngay trong tổng hành dinh Vatican của họ.  Trong khi chính Vị chủ chăn ở Vatican đã bác bỏ Tin Mừng Cứu Rỗi thì những bề trên khác, và ngay cả Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, đại diện Giáo hoàng Francis tại VN, vẫn mê hoặc giáo dân Việt Nam bằng “Tin Mừng cứu rỗi” thực chất chỉ là những hứa hẹn hão huyền về một đời sống đời đời trên một thiên đường giả tưởng.  Thật vậy:
Từ năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói với các khoa học gia là
cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ lớn (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thượng đế.” (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p. 116: He told us that it was all right to study the evolution of the universe after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself because that was the moment of Creation and therefore the work of God).
Chúng ta nên để ý, căn bản thuyết Big Bang đã được công nhận là đúng dù năm 1981, thuyết Big Bang chưa được hoàn chỉnh cho đến khi dò ra được bức xạ nền [background radiation] trong vũ trụ vào năm 1992, và rồi những vân trong bức xạ nền v..v…nhưng Giáo hoàng cũng đã phải công nhận vũ trụ này sinh ra từ một Big Bang.  Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng đặc, vô cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và đã xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ năm chứ không phải là chỉ có từ 6000-10000 năm do sự “sáng tạo” (sic) của Gót của Ki-tô giáo như được viết trong Kinh Thánh, được coi như những lời không thể sai lầm của Gót.
Rồi đến năm 1996, giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới là
“thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Gót, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”).
Chấp nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết tiến hóa về nguồn gốc con người, chấp nhận con người không phải là do Gót tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, giáo hoàng đã phá tan thuyết sáng tạo của Gót, cùng huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Gót tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Dê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực. 
Giáo hoàng đã bác bỏ đức tin quan trọng nhất trong Ki-tô giáo: Quyền năng “cứu chuộc”, “cứu rỗi” , “luận phạt” của Dê-su, và cũng bác bỏ sự hiện hữu của một thiên đường, do đó hi vọng của các tín đồ Ki-tô về một cuộc sống đời đời trên thiên đường cùng Giê-su chẳng qua chỉ là một ảo vọng, bắt nguồn từ một sự mù lòa tin bướng tin càn, và sự luận phạt của Giê-su đối với những người không tin Dê-su chẳng qua chỉ là một sự hù dọa đã không còn ý nghĩa.
Rồi tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố:
"thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life).
Như vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội Công giáo:
“người nào tin Dê-su thì sẽ được Dê-su cho lên thiên đường sống cuộc sống đời đời bên ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Dê-su phán xét đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục ở trong lòng đất”, hai câu trong Tân Ước, John 3.16,18, mà chính Giáo hoàng đã dùng để trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần cứu rỗi” trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”.
Thiên đường, cái bánh vẽ trên trời mà Giáo hội thường dùng để khuyến dụ những người nhẹ dạ cả tin, và một hỏa ngục để hù dọa những người yếu bóng vía, sau cùng đã không còn tác dụng gì đối với nhân loại trong thời đại văn minh tiến bộ ngày nay.
Bởi vậy, từ những công cuộc nghiên cứu mới nhất về Thánh Kinh, về nhân vật Dê-su, về Ki Tô Giáo nói chung, giới thức giả Tây phương đã thức tỉnh và nhận ra rằng, từ thế hệ này qua thế hệ khác, trải qua 2000 năm lịch sử, từ khi Dê-su sinh ra đời, con người Tây phương đã bị giam chặt trong một đức tin thuộc loại mù quáng, không cần biết, không cần hiểu.  Hơn nữa, trước những cảnh chiến tranh triền miên, thiên tai, bệnh tật, cảnh khổ, cảnh chết đói ở những nước kém mở mang ở Phi Châu, bất cứ người nào còn có đầu óc suy tư  đều không còn có thể chấp nhận luận điệu thần học về một Gót toàn năng, toàn trí, và những thuộc tính của Gót như : "Gót quá thương yêu thế gian...", "Dê-su yêu tất cả mọi người", "Dê-su đến để mang một tin vui, tin vui tình thương, tin vui tự do..." v..v..  Chỉ có những đầu óc trong đó có một khuyết tật hay một điểm mù tôn giáo mới có thể còn tin như vậy.
Sự thức tỉnh của Tây phương không chỉ thuần túy là vì những giá trị mạc khải của tín ngưỡng Ki Tô Giáo nay đã sụp đổ, vì những giáo lý, bí tích v..v… ngày nay đã không còn mấy giá trị trong thế giới Tây phương, mà còn vì một khía cạnh khác không kém phần quan trọng.  Đó là cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô giáo, và vấn đề đạo đức trong giới chăn chiên, đã làm cho thế giới thấy rằng đó chỉ là những tổ chức thế tục, buôn thần bán thánh, nấp sau bộ mặt tôn giáo.  Ngày nay, các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô đã phanh phui ra rằng lịch sử Ki Tô Giáo không như các giáo hội Ki-tô quảng cáo mà còn có cái mặt đen tối, và nếu đặt lên cán cân thì mặt này sẽ nặng trĩu trên cán cân.  Sau đây là vài lời thú nhận của chính giáo hoàng John Paul II của Công  Giáo La-mã.
1994: Trong một mật thư gửi cho các hồng y, về sau bị lộ ra cho báo chí Ý, giáo hoàng John Paul II đặt câu hỏi: "Làm sao mà chúng ta có thể tiếp tục yên lặng trước nhiều hình thức bạo tàn mà giáo hội đã phạm phải nhân danh đức tin - chiến tranh tôn giáo, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo và những hình thức vi phạm nhân quyền khác?" (Chicago Tribune, June 5, 1995: In a 1994 confidential letter to cardinals which was later leaked to  the Italian Press, Pope John Paul II asked: "How can one remain silent about the many forms of violence perpetrated in the name of faith - wars of religion, tribunals of the Inquisition and other forms of violations of the rights of persons?")
1995:  Giáo hoàng John Paul II thúc giục Giáo Hội Ca Tô Rô Ma hãy nắm lấy cơ hội "đặc biệt thuận lợi" của một thiên niên kỷ mới để ghi nhận "cái mặt đen tối của lịch sử giáo hội (Công giáo)" (Ibid.,: Pope John Paul II had urged the Roman Catholic Church to seize the "particularly propitious" occasion of the new millennium to recognize "the dark side of its history").
Rồi đến ngày 12 tháng 3 năm 2000, trong một cuộc “thánh lễ” công cộng tại “thánh đường” Phê-rô, Giáo hoàng cùng một số hồng y, tổng giám mục, trong đó có tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận, đại diện cho “hội thánh” Ca-tô, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội ác” đối với nhân loại của Công giáo.  7 núi tội ác này, qua gần 20 thế kỷ, đã đưa đến những thảm họa to lớn cho nhân loại như “thập ác chinh” (thường được gọi một cách sai lầm là “thánh chiến” vì bản chất những cuộc chiến này rất man rợ, bạo tàn chứ chẳng có gì là “thánh” cả), tòa hình án xử dị giáo, bách hại dân Do Thái, kỳ thị phái nữ, liên kết với thực dân để truyền đạo với sách lược xâm lăng văn hóa, mưu toan thống trị và có thái độ thù nghịch với các tôn giáo khác v..v.. 
Hành động “xưng thú 7 núi tội ác” này đã làm cho những lời tự nhận của giáo hội mà giáo hội thường nhồi nhét vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, rằng Ca-tô giáo là một “hội thánh”, là tôn giáo “thiên khải duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “hôn thê của Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại”, “bác ái”, “dân chủ” v..v.., trở thành những lời nói láo vĩ đại nhất trong lịch sử các tôn giáo của loài người.  Một khi mà những lời nói láo không còn có hiệu lực và không còn thuyết phục được ai, thì tất nhiên con người sẽ không còn tin vào chúng nữa.  Và ngày nay, ở Tây phương cũng như ở nhiều nơi trên thế giới, tín đồ bỏ đạo hàng loạt là vì họ không còn muốn dính dáng gì đến một giáo hội đầy tội lỗi thế gian, và trình độ người dân ngày nay đã cao, không còn có thể tin vào những điều thuộc loại hoang đường mê tín nữa.  Chính các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô đã khai sáng cho họ qua những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về Ki Tô Giáo.
Tổng Giám mục Leopoldo Girelli còn nói:
Đức Giêsu Kitô đến để làm chứng cho Sự thật, đã chấp nhận chịu nạn, chết và rồi phục sinh, hai ngàn năm qua Hội thánh cũng được Chúa Thánh Thần dẫn đưa vào Sự thật qua đối thoại với thế giới, dẫu có bị chống báng hay bắt bớ.
Không thể tưởng tượng là ngày nay mà một ông Tổng giám mục, đại diện của Giáo hoàng Francis mới lên ngôi, còn nói lên được toàn là những lời mê sảng cũ kỹ có tính cách mạ lỵ đầu óc con người.  Thử hỏi, với một lịch sử tàn bạo đẫm máu của Ca-tô giáo mà chính Tòa Thánh Vatican đã thú nhận, Ca-tô giáo có còn có thể gọi là một “hội thánh” được hay không?  Mặt khác, như trên đã nói, Giáo hoàng John Paul II đã phá tan thuyết sáng tạo của Gót, cùng huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Gót tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông.  Vậy Dê-su chịu nạn để làm gì, để chuộc cái tội tổ tông không hề có, và Dê-su đến để làm chứng cho Sự Thật, thì đó là sự thật như thế nào.  Sự thật của Dê-su là gì trong khi C.J. Werleman đã chứng minh là: “Dê-su Nói Láo: Ông Ta Chỉ Là Con Người”, xin đọc:  http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN139.php.  Thực chất con người của Dê-su là như thế nào? 
-  Giám mục John Shelby Spong, sau khi nghiên cứu Tân ước, đã đưa ra một nhận định về Dê-su như sau:
Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Dê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
(John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21: There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical).
 -  Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài http://www.nobeliefs.com/jesus.htmChúng Ta Có Nên Kính Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?):
  Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Dê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.
[Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.]
 -  Và Russell Shorto, một học giả Ki Tô Giáo, đã tổng hợp những tác phẩm nghiên cứu về Dê-su trong vòng 200 năm nay, trong kết luận như sau trong cuốn Sự Thật Phúc Âm (Gospel Truth):
 Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Dê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng  – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư.  Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
[Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger.  So the only ones left in the dark are ordinary Christians.]
Nếu Tổng giám mục Leopoldo Girelli mà nói những lời trên trước đám thính giả Tây phương hay trước những người ngoại đạo Việt Nam thì họ sẽ cười cho thối mũi và bỏ ra về.  Nhưng trước đám con chiên Việt Nam thì những điều hoang đường mê hoặc đó vẫn còn có tác dụng. Cho nên, trên đầu môi chót lưỡi, cựu giáo hoàng cũng như tân giáo hoàng đều tỏ vẻ quan tâm đến giáo hội Ca-tô ở Việt Nam vì giáo dân Việt Nam nổi tiếng là ngoan đạo, ngu đạo thì đúng hơn, nhất hoàn cầu, họ bị nhốt trong chính sách “ngu dân dễ trị” của giáo hội, trong đó các bề trên vẫn cố dấu kín những sự thực về giáo hội, về con người Dê-su.. Giáo hội Ca-tô Việt Nam cần có nhiều Charlie Nguyễn thì may ra mới khá lên được, mới thoát ra khỏi ngục tù tâm linh của Ca-tô Rô-ma Giáo..
Ngày nay, trừ đám con chiên thấp kém ở dưới và đám chăn chiên xảo quyệt dùng để truyền đạo, chẳng còn mấy ai tin vào cái huyền thoại cứu rỗi, một huyền thoại mà linh mục James Kavanaugh đã cho là: “Đó là  một huyền thoại của thời bán khai, bản chất của nó giống như những huyền thoại của các dân tộc bán khai ở khắp nơi, nhưng nó hoang đường và ác độc hơn hầu hết các huyền thoại khác” (But it is more unbelievable and more cruel than most myths).  Xin đọc:   "Huyền Thoại Cứu Rỗi" (Linh Mục James Kavanaugh); và Giám mục Spong đã  cho rằng vai trò “cứu thế” của Dê-su cần phải dẹp bỏ (Jesus as a rescuer: An image that has to go). Xin đọc: Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế - Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Giám Mục John Shelby Spong).
Riêng đối với tôi, tôi cũng không thể chấp nhận huyền thoại cứu rỗi.  Đọc Tân Ước về chuyện vì Dê-su sinh ra ra mà bao trẻ thơ vô tội bị giết, không hiểu các con chiên nghĩ sao chứ tôi, tôi không thấy sự sinh ra của Dê-su có ý nghĩa gì tốt đẹp cho nhân loại.  Chúng ta hãy tưởng tượng cảnh lính tráng của Herod vào từng nhà ở Bethlehem và vùng lân cận, thấy đứa trẻ nào dưới 2 tuổi, giật nó ra khỏi vòng tay của bà mẹ, và giết nó ngay trước mặt mẹ nó.  Sự sinh ra của Dê-su đã phủ một màn tang tóc đầy máu trên Bethlehem và vùng lân cận.  Tiếp theo đó là người ta đã nhân danh Dê-su để phát minh ra những hình cụ khủng khiếp nhất để tra tấn con người, mang con người đi thiêu sống, chỉ vì họ không chịu tin vào Dê-su, gây nên bao nhiêu thảm cảnh chém giết đẫm máu trên nhân loại như lịch sử Ca-tô Giáo đã chứng tỏ.
Ingersoll, nhà tư tưởng tự do (freethinker) vĩ đại nhất của nước Mỹ, viết về những tác hại của Tân Ước và của niềm tin vào Dê-su trên nhân loại:
" Nhân danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất. 
Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng  cả  ngàn  năm. Trong phúc âm của hắn chúng ta thấy cái tín lý về sự đau khổ vĩnh viễn, và những lời của hắn đã gia thêm sự kinh khủng vô tận vào sự chết.  Phúc âm của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người.  Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra."
(In Christ name millions and millions of men and women have been imprisoned, tortured and killed.  In his name millions and millions have been enslaved.  In his name the thinkers, the investigators, have been branded as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest and the best.  In his name the progress of many nations was stayed for a thousand years.  In his gospel was found the dogma of  eternal pain, and his words added an infinite horror to death.  His gospel filled the world with hatred and revenge, made intellectual honesty a crime, made happiness here the road to hell, denounced love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man.
It would be far better had the New Testament never been written - far better had the theological Christ never lived.)
Vậy thì ngày “giáng sinh” của Dê-su nên đổi thành ngày “giáng họa” cho đúng với những gì viết trong Tân Ước và đúng với lịch sử tàn bạo của Ca-tô Rô-ma Giáo. Người nào không đồng ý với ý kiến này xin mời lên tiếng. 
Từ những tài liệu trong hai phần trên, chúng ta có thể kết luận được gì.
- Một số giám mục đã tiếm danh Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nhân danh toàn thể giáo dân và cả toàn thể nhân dân Việt Nam để hoạt động chính trị chống đối chính quyền, và như Phê-rô Hồ Minh Điệp đã nhận định: “Nay các GMVN  lôi đống cặn bã này ra tuyên chiến với chế độ CSVN, nhằm mục đích gì”.  Cặn bã đây chính là sắc lệnh chống Cộng của giáo hoàng Pie XII mà các Giám mục Việt Nam mù quáng tuân theo.
-  Một số Giám Mục Việt Nam là những nhân viên hoạt động năng nổ nhất để khích động đám giáo dân thấp kém u mê gây loạn trong xã hội qua những chiêu bài như cầu nguyện hiệp thông với búa, kìm và xà beng, bất chấp luật pháp quốc gia.  Khích động biểu tình dài dài chống Trung Quốc với bộ mặt yêu nước thực chất là gây khó khăn cho chính quyền trong con đường ngoại giao, tạo thêm sự hiềm khích chia rẽ giữa hai nước, chứ Ca-tô giáo đâu có coi Việt Nam là nước của họ.  Nước của họ là ở Vatican, ở trên trời.
Từ kinh nghiệm của Thái Lan, Phật Giáo Việt Nam nên cảnh giác, đừng có lao đầu vào lời chiêu dụ “đối thoại chân thành” của Ca-tô Giáo.  Nên nhớ chính Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, đại diện của Giáo hoàng ở Việt Nam, đã phát biểu ““đối thoại chân thành” là con đường để loan báo tin mừng cứu rỗi”.  Không hiểu ông ta có nói hớ hay không hay vì vẫn còn mê muội cuồng tín về một cái bánh vẽ trên trời. Đây là sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ca-tô Giáo. Phật Giáo đâu có cần nghe cái tin mừng nhảm nhí vô giá trị này. Nhảm nhí vì những tài liệu trong Phần 2 đã chứng minh là hai Giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI đã cùng nhau phá bỏ toàn bộ giáo lý của Ca-tô giáo về chuyện sáng thế, về tội tổ tông, và tất nhiên về huyền thoại Dê-su chịu nạn để chuộc tội cho nhân loại và về vai trò “cứu rỗi” hay “cứu thế” của Dê-su.
Cuối cùng tôi cần phải nhắc lại hai đoạn quan trong trong bài của Phê-rô Hồ Minh Điệp:
- Các GM, LM cho rằng như thế HĐGM đã đầu cơ chính trị lên tiếng đòi xóa sổ chế độ Nhà nước hiện nay, nhằm đầu tư vai trò chính trị của GHCG cho một chế độ Nhà nước VN tương lai theo định hướng của các GMVN, như thế là thiếu đạo lý đối với đồng bào Việt Nam và coi nhẹ đại nghĩa của dân tộc VN. HĐGM hành động như vậy, phải chăng vì tin rằng toàn thể các GM, LMVN cùng 7 triệu giáo dân VN là “nhân dân cả nước” đứng sau lưng mình?
- Có GM, LM xác tín rằng Thư góp ý của HĐGMVN đã mở ra một “Mùa xuân cho GHVN thực sự đồng hành với dân tộc VN”? Nhưng mùa xuân nào với một thực tế là Giáo hội trong nước thì giương cao ngọn cờ chống CSVN vô thần độc tài toàn trị”, kêu gọi “thắp nến cầu nguyện, đòi xóa bỏ Hiến pháp VN, để “nhân dân cả nước” thành lập một chế độ VN mới dưới cây gậy chỉ huy của HGGGM
Muốn biết nếu chế độ Nhà nước VN tương lai theo định hướng của các GMVN , haymột chế độ VN mới dưới cây gậy chỉ huy của HGGGM (??) thì Việt Nam sẽ trở thành như thế nào, chúng ta cần phải biết một chút về lịch sử.  Kinh nghiệm chế độ Ca-tô Ngô Đình Diệm ở miền Nam trước đây, dưới cây gậy chỉ huy cùa các giám mục, linh mục, đã biến Nam Việt Nam thành một xã hội như thế nào, chúng ta đã biết.  Chế độ đó là một vết nhơ không sao tẩy xóa được trong lịch sử Việt Nam.
- Người trí thức Việt Nam ở trong đạo cũng như ngoài đạo đã biết rõ hiểm họa của Ca-tô  Rô-ma Giáo là như thế nào.  Người trí thức Ca-tô đạo gốc Charlie Nguyễn, alias Bùi Văn Chấn, đã có một số ý kiến trong bài “Việt Nam Cần Thực Hiện Những Biện Pháp Mạnh Để Đối Phó Với Quốc Nạn Công Giáo – Tin Lành” trước đây rất đáng để Nhà Nước nghiên cứu và thực hiện những gì có thể thực hiện.
- Trong bài Góp Ý Trong Vấn Đề Sửa Đổi Hiến Pháp, Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã đưa ra một số đề nghị rất thiết thực, rút kinh nghiệm từ những biện pháp bảo vệ quyền lợi và căn tính của những quốc gia đã từng bị Vatican và các giáo hội Ca-tô địa phương thống trị:
… Đưa vào hiến pháp một số điều khoản cũng như ban hành các đạo luật (1) giới hạn quyền công dân và quyền lợi của những người còn tự nhận là con chiên của Vatican (như Anh quốc), (2) đòi hỏi tín đồ Ki-tô phải đặt quyền lợi của  đất nước lên trên hết, (3) phải cắt đứt quan hệ với Vatican (như Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác như các nước mà đạo Hồi là tôn giáo chính), (4) đặt Giáo Hội La Ma Mã ra ngoài lề xã hôi và cấm con chiên của Giáo Hội không được tham chính (như ở Anh Quốc,và nhiều quốc gia khác ở vùng Trung Đông), v.v…
Người viết xin thành khẩn đề nghị lên các nhà hữu trách trong Quốc Hội Lập Hiến hay Hội Nghi Lập Hiến sắp tới cần thêm những điều khoản để ngăn chận và loại trừ bất cứ thành phần, cá nhân, nhóm, đoàn, đảng phái nào liên hệ đến Giáo Hội La Mã ra khỏi những cơ quan quyền lực.  Họ luôn luôn có thể làm nguy hại cho sự tồn vong của tổ quốc.
Là con dân của dân tộc Việt Nam luôn hướng nhìn về Tổ Quốc, dù sống tha hương, chúng tôi vẫn hằng mong mỏi đất nước được an bình và phồn thịnh.  Ước mong được các bậc thức giả ở trong nước cũng như ở ngoài nước cùng quan tâm và lên tiếng để làm sáng tỏ vấn đề quan trọng này.  Mong lắm thay!
- Gần đây sachhiem.net đã đưa lên thư ngắn của Duyên Sinh trong đó có video về những cuộc Tàn Sát Khủng Khiếp Của Vatican (The Vatican’s Holocaust). Đây là một tài liệu lịch  sử về chính quyền Ca-tô Pavelic ở Croatia trong thời Đệ Nhị Thế Chiến đã tàn sát 700000-800000 (7 đến 8 trăm ngàn) người Chính Thống Giáo, Do Thái và Gypsies :
Video này có nhiều chi tiết làm cho người xem phải rùng mình ghê tởm trước sự độc ác quá sức tưởng tượng của các giám mục, linh mục trong chính quyền Ca-tô Pavelic ở Croatia với sự đồng ý của Vatican.Vì vậy Vatican đã dùng các cơ quan từ thiện như Caritas, Hồng Thập Tự, làm thông hành giả cho các tội phạm chiến tranh Croatia tạm thời ẩn náu trong các tu viện Ca-tô, rồi chuồn đi Nam Mỹ.  Video này là một tài liệu cần phải phổ biến rộng rãi trong quần chúng để cho họ thấy cái hiểm họa của Ca-tô giáo đối với nhân loại.
Video này có thể coi như là một cảnh báo cho chính quyền Việt Nam.  Lịch sử thế giới cho thấy, bất cứ nơi nào mà chính quyền quốc gia nằm trong tay Ca-tô Rô-maGiáo thì bao giờ ở đó cũng có những cuộc tàn sát người ngoại đạo, cưỡng bách cải đạo, độc tài văn hóa ngu dân.  Kinh nghiệm về các chính quyền Ca-tô Rô-maGiáo như Franco ở Tây Ban Nha, Pavelic ở Croatia, Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam v…v… cho thấy rõ như vậy.  Cho nên, để bảo vệ truyền thống quốc gia, Quốc Hội phải ra luật tuyệt đối cấm không để cho người Ca-tô Rô-maGiáo giữ những chức vụ then chốt có nhiều quyền hành trong chính quyền, khoan nói đến chức vụ nguyên thủ quốc gia.  Phòng bệnh bao giờ cũng tốt hơn là chữa bệnh.  Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm là một kinh nghiệm đắt giá, và ảnh hưởng của nó còn kéo dài cho tới ngày nay, ở trong nước cũng như ở hải ngoại. 
-  Bá Tước  Avro Manhattan đã viết trong cuốn "The Vatican's Holocaust", xuất bản năm 1986, như sau:
Một trong những nhiệm vụ chính của Văn Phòng Thánh (Holy Office), hậu thân của Tòa án xử dị giáo, là làm sao cho cái lò sát sinh ở  Croatia và cái chế độ Ca-tô độc tài ở Việt Nam được quên đi, và trở thành một mẩu ghi chú của lịch sử xa xưa.
Sách lược này đã thành công một phần... Không như những trại tập trung kinh khủng của Hitler và Stalin, các trại tập trung ở Croatia và cảnh Phật tử tự thiêu ở Việt Nam, một hình thức phản đối sự can thiệp khủng bố tôn giáo của Vatican, đã trở thành những cấm kỵ trong diễn đàn truyền thông thế giới. (Bây giờ chúng ta đã hiểu tại sao ở ngoại quốc có cả một chiến dịch phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm cũng như xuyên tạc và bôi nhọ các cuộc tự thiêu chống Diệm của Phật Giáo)
Những đoan quyết căn bản của Ca-Tô chưa bao giờ thay đổi tí nào. Cho đến nay cũng như tự bao giờ, sự chấp chặt của Giáo hội Ca-Tô trên tính chất duy nhất của giáo hội vẫn còn chắc như đá hoa cương. Cũng chính vì những chấp chặt này mà đã xảy ra tòa án xử dị giáo, Croatia và chế độ độc tài Ca-Tô ở Việt Nam.
Nếu quá khứ là một dấu hiệu về những việc xảy ra trong tương lai thì, khi nắm được cơ hội và ở trong một bối cảnh chính trị thích nghi, những tòa án xử dị giáo mới, những Croatia mới và Việt Nam mới sẽ lại được tạo ra hoài hoài. Khi nào, ở đâu và như thế nào, chỉ có tương lai mới trả lời được."
(One of its (the Holy Office) main current tasks is to make sure that the Croatian Holocaust and the Catholic dictatorship of Vietnam are forgotten, and become a mere footnote of remote history.
It has partially succeeded...Unlike Hitler's and Stalin's horrigic concentration camps,the Croatian ones and the Buddhist self-immolation in Vietnam, as a protest against the Vatican's religious terroristic interference, have already become taboos to the mass media of the World.
...The Basic Catholic claims have never changed one single iota.The Catholic Church's insistence about her own uniqueness has remained as granitically firm now, as it has always been.These are the same claims which produced the Inquisition, Croatia and the Catholic Dictatorship of Vietnam.
If the past be an indication of the shape of things to come then, given the right opportunities and appropriate political climate, New Inquisition, New Croatias and New Vietnams will be created again and again.When, where and how, only the future will tell)
Từ những tài liệu trên, để phòng bệnh thay vì chữa bệnh, chúng tôi mong Nhà Nước Việt Nam nên có một chính sách giáo dục để mở mang dân trí về thực chất các tôn giáo ở Việt Nam.  Những tài liệu nghiên cứu nghiêm chỉnh về Ca-tô Rô-ma Giáo cần phải được phổ biến rộng rãi trong quần chúng.  Đây là điều mà các xã hội văn minh tân tiến Tây phương đã làm từ hai thế kỷ nay, tránh cho xã hội những xáo trộn vì sự cuồng tín tôn giáo như thường xảy ra ở Việt Nam gần đây.  Giáo dục công dân để mọi người, không phân biệt khuynh hướng chính trị, tôn giáo, thấm nhuần trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội, là điều vô cùng quan trọng để giữ cho quốc gia ổn định, thanh bình, và tiến bộ.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, tôi thành khẩn kêu gọi mọi người có ý thức dân tộc, nhất là các bạn trẻ, vì tiền đồ và tương lai dân tộc, với tinh thần vô úy, hãy tích cực tham gia mặt trận văn hóa để giải hoặc Ki Tô Giáo, hóa giải hiểm họa của Ki Tô Giáo.  Tại sao?  Vì sách lược truyền đạo của Ki Tô Giáo là sách lược xâm lăng văn hóa, nghĩa là chủ trương xóa bỏ nền văn hóa dân tộc của các địa phương để thay vào đó nền văn hóa độc thần của Ki Tô Giáo. Giải hoặc Ki Tô Giáo là con đường duy nhất để có thể đối phó với những thủ đoạn mánh mưu truyền đạo của Ca-tô Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung.
Chúng ta chỉ cần đưa ra những sự thật, chỉ là sự thật, không gì ngoài sự thật [the truth, only the truth, nothing but the truth]về cuốn Kinh Thánh của Ki Tô Giáo,  với đầy đủ những điều sai lầm về thần học cũng như về khoa học, khoan kể đến đầy những chuyện dâm ô, ác độc, loạn luân, phi luân, và có tính cách ngu dân trong đó, về lịch sử tàn bạo của Ca-tô Giáo và Tin Lành trên khắp thế giới, về thực chất các giáo lý bịp bợm của các giáo hội Ki Tô, về những bí tích hoang đường, về những thủ đoạn truyền đạo của Ki Tô Giáo nói chung, về những vai trò tự phong của Giáo hoàng, Linh mục, về đạo đức của giới chăn chiên  v… v…, và tìm cách phổ biến những sự thật này thật rộng rãi trong quảng đại quần chúng. Chúng ta không nên bị mê hoặc bởi những bình phong từ thiện, bác ái, và bộ mặt đạo đức giả tạo ngoài mặt của Ki Tô Giáo ở trước mắt mà quên cái hại lâu dài đối với dân tộc ở đàng sau.  Chúng ta đều biết rằng các tín đồ Ki Tô Giáo không sợ bất cứ cái gì khác, mà chỉ sợ sự thật.  Và đây là nhận định của nhiều chuyên gia nghiên cứu về Ki Tô Giáo.
Chúng ta hãy tích cực trong nhiệm vụ từ bi này.  Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Giúp cho người dân mở mang đầu óc, cập nhật hóa kiến thức thời đại, nhận rõ chân thực, là mang đến cho họ một nguồn vui vô tận; giúp cho người dân tỉnh thức, không bị huyễn hoặc bởi những điều hoang đường, mê tín, cất bỏ lòng sợ hãi thần quyền, và thoát khỏi một tâm cảnh nô lệ ngoại quyền, đó chính là cứu khổ.  Vì sự an sinh của quần chúng, vì tương lai của dân tộc, vì sự tiến bộ trí thức của người dân, chúng ta hãy cùng nhau góp sức đẩy mạnh những hoạt động có ích này trong tình trạng đang phát triển, tiến bộ về mọi mặt của đất nước.  Chúng ta nên nhớ, văn hóa là linh hồn của dân tộc.  Và văn hóa của Việt Nam chính là văn hóa của tuyệt đại đa số người dân.  Chúng ta sẽ không cần phải e ngại trong nhiệm vụ đập tan mọi luận điệu, mưu toan muốn hạ thấp hay xóa bỏ nền văn hóa của Việt Nam mà nhiều đời ông cha cũng như chúng ta đều trân quý.  Lẽ dĩ nhiên, đây là nhiệm vụ chung của mọi người dân yêu nước, nếu chúng ta muốn duy trì, gìn giữ một quốc gia thuần nhất về truyền thống và văn hóa.  Chúng ta không ngần ngại áp dụng những cái hay cái đẹp của các xã hội khác trên thế giới.  Nhưng chúng ta quyết không để cho những đồ thuộc loại ngu dân mê tín mà các xã hội Tây phương phế thải xâm nhập vào Việt Nam để gây phương hại cho đất nước.
Chúng tôi hi vọng mọi người chúng ta sẽ có đủ kiến thức và tinh thần vô úy để dấn thân trong mặt trận văn hóa này.

Trần Chung Ngọc
Ngày 25 tháng 7, 2013

2013/06/14

Về Tình Trạng Đồng Hóa Đức Tin Với Chính Trị Của Giáo Hội Công Giáo Tại Việt Nam


LTS: Đăng bài này, chúng tôi lại nhớ tới bài của giáo dân Nguyễn Trọng Nghĩa. Khổ cho các ông Nguyễn Trọng Nghĩa và Hồ Minh Điệp, người ta viết bài không cần trình hết lý lịch, còn mấy ông phải khai báo cả thẻ căn cước cho mọi người chỉ bởi vì "dám thưa chuyện" với Giáo Hội La Mã! Dù vậy, ông Phê-rô Hồ Minh Điệp cũng phải chuẩn bị gánh chịu một cuộc điều tra và một bản án về bệnh "tâm thần" từ JB Nguyễn Hữu Vinh hoặc một "tôi tớ hèn mọn" nào khác của GHVN.
Trong một bài viết để sách nhiễu giáo dân Nguyễn Trọng Nghĩa, con chiên Gioan Bao Nguyễn Hữu Vinh mô tả rất chính xác tình trạng Cừu (nghĩa là không có chủ kiến gì cả) của giáo dân như sau:
"...Họ cũng thừa biết xưa nay, giáo dân Công giáo luôn đồng lòng, nhất trí với Hội đồng Giám mục một cách hầu như là tuyệt đối trong những vấn đề cơ bản đối với vận mệnh giáo hội và đất nước, vì con người. Do vậy, tiếng nói của Hội đồng luôn được sự ủng hộ to lớn."
Ông Gioan Bao Nguyễn Hữu Vinh cũng thật thà xác nhận thêm tình trạng những cái đầu đã bị "bê tông hóa " những con người đã thành Robots, thì chuyện hiệp thông hay đục tường chỉ cần các Cha bấm nút là chạy mà thôi:
"... Chính vì thế, đánh vào khối này còn khó hơn 'đục khối bê-tông', càng đánh trực diện vào nó, càng khơi động tinh thần đoàn kết, hiệp thông".
Gioan Bao tự bạch như thế, vậy thì các ông nào tổ chức bầu cử nhớ nhé, con số 7% dân số mà ông Gioan Bao đem ra khoe khoang, không thể đếm thành đầu người, vì đó là những con robots, mà chỉ có thể kể được mấy bàn tay của các Cha mà thôi.
Chúng tôi lập lại những lời này để ông Gioan Bao khỏi nhọc công viết thêm một bài khác tương tợ như "Sự Cùng quẫn của Tờ Báo Đảng". Xét ra, sự cùng quẫn này là sự cùng quẫn của các con chiên. Khi họ muốn viết bài chỉ trích các mục tử, lại chẳng dám gửi cho ai đăng, nên gửi cho chúng tôi với hy vọng là chúng tôi được may mắn ở ngoài nanh vuốt của các Cha.
Chúng tôi tạo điều kiện cho quyền được lên tiếng, những ý kiến nghiêm túc của tác giả đối với cái thế lực mà không ai nghĩ rằng nó độc hại vì nó luôn được che kín bằng những chiếc áo lộng lẫy đắt tiền. Tuy nhiên chúng tôi không có ý kiến về các đề tài trong nội dung mặc dù chúng tôi luôn nghĩ rằng: Giáo hội chỉ nên làm việc đạo giáo và nên từ bỏ việc gươm giáo nếu không phải là việc hợp tác chống ngoại xâm. Khổ nỗi, lịch sử cho thấy, việc chống ngoại xâm xưa nay Giáo Hội không quen. (SH)

Tp Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 5 năm 2013
Đức Thánh Cha Phanxicô Tòa Thánh Vatican
Kính tâu Đức Thánh Cha,
"
Trước hết chúng con chức mừng Đức Thánh Cha đã được “các anh em Hồng Y của Đức Thánh Cha đi đến hầu như tận cùng trái đất để tìm kiếm được vị Tân  Giám Mục Rôma”, và chúng con xin được cầu nguyện cho Đức Thánh Cha chu toàn sứ vụ nặng nề phục vụ một Hội Thánh Chúa vì người nghèo mà Chúa đã trao phó cho Đức Thánh Cha.
Và sau đây, con xin tâu lên Đức Thánh Cha những vấn đề liên quan đến sứ vụ của Giáo  Hội Công Giáo (GHCG) toàn cầu và cách riêng của GHCG tại Việt Nam. Thực vậy, từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 cho đến nay, con rất vinh hạnh được tâu lên Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Nguyên Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI những suy tư thao thức của nhiều anh em Công Giáo Việt Nam (CGVN) chúng con, về vấn đề đường lối mục vụ của GHCGVN nhập thể gắn bó máu thịt trong lòng dân tộc Việt Nam, là “Do thái với Do thái, Hy Lạp với Hy Lạp”, nhằm góp phần vào công cuộc hòa giải của dân tộc Việt Nam sau chiến tranh, dưới ánh sáng của Cộng đồng chung Vatican II, được Hội Đồng Giám Mục (HĐGM) Việt Nam cụ thể hóa vào đường lối, mục vụ cho GHCG tại VN qua Thư chung nổi tiếng năm 1980, được hai vị Giáo Hoàng tiền nhiệm ban phép lành đồng thuận và bày tỏ rằng “Việt Nam luôn ở trong trái tim tôi”.
Đồng thời, hai vị Giáo Hoàng đáng kính này đã luôn quan tâm chăm sóc đường lối mục vụ trên qua những cuộc viếng tăm ad limina của các Giám Mục VN, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã huấn dụ các GMVN cần phải tôn trọng đối thoại và hợp tác lành mạnh với chính quyền VN, và Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI vừa nhắc lại Thư chung năm 1980 của HĐGMVN, vừa nhấn mạnh với các GMVN phải đối thoại, hợp tác chân thành trong đức ái với toàn thể cộng đồng dân tộc VN, và cho rằng người CG tốt phải là người công dân tốt. Đó là những đường lối mục vụ loan báo Tin Mừng rất đúng đắn của GHCG đối với dân tộc VN, khiến cho Nhà nước VN tỏ ra trân trọng, chấp nhận việc Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm Đại diện không thường trú tương đương chức vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại VN, và khi các nhân vật lãnh đạo cao nhất của Nhà nước VN đến viếng thăm Tòa Thánh, đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI tiếp kiến các vị ấy theo nghi thức trang trọng nhất của quốc gia Vatican!
Vì thế, chúng con xin được trình lên những vấn đề Đức Thánh Cha đang quan tâm và có thể là nhạy cảm nữa, nhất là đối với các GHCG tại Trung Quốc và Việt Nam, mà Đức Thánh Cha đã bày tỏ rằng “ Giáo Hội Trung Hoa luôn hiện diện trong trái tim tôi”.
Kính tâu Đức Thánh Cha,
Chúng con được biết, Đức Thánh Cha quan tâm đến GHCGVN cách riêng, chẳng hạn Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, đại diện Đức Thánh Cha tại VN, đã phát biểu tại hội nghị các GMVN (03.4.2013)
Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli
Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli
Đôi lời chia sẻ về Đức Tân Giáo Hoàng và những điểm nhấn trong đường hướng của mục tử chung của toàn thể Hội thánh Công giáo. Con đường đối thoại chân thành và ôn hòa với thế giới trong đó Hội thánh Chúa Kitô hiện diện và sống vẫn luôn là con đường  cơ bản để loan báo Tin mừng cứu độ. Cũng như Đức Giêsu Kitô đến để làm chứng cho Sự thật, đã chấp nhận chịu nạn, chết và rồi phục sinh, hai ngàn năm qua Hội thánh cũng được Chúa Thánh Thần dẫn đưa vào Sự thật qua đối thoại với thế giới, dẫu có bị chống báng hay bắt bớ. Vị Đại diện Đức Thánh Cha điểm lại tình hình mới của Giáo hội trong thế giới cũng như sự tiến triển của cuộc đối thoại thời gian qua giữa Tòa thánh với chính phủ Việt Nam…”
Trong khi đó, “Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn tường trình về chuyến đi tham dự Mật Nghị bầu Giáo Hoàng mới và theo lời Đức Hồng Y, xem ra Đức tân Giáo hoàng Phanxicô quan tâm cách riêng đến Giáo hội Việt Nam”.
Chính vì mối quan tâm của Đức Thánh Cha đối với Giáo Hội VN, chúng con mạo muội tâu lên Đức Thánh Cha tình trạng tôn giáo hóa chính trị, cũng đồng thời là chính trị hóa tôn giáo của GHVN hiện nay, bên cạnh đó là những tha hóa về mặt đạo đức luân lý, và không nhất quán về mục vụ trong nhận thức gắn bó của GHCG với cộng đồng dân tộc VN, dường như GHVN đang có dấu hiệu xa rời đại khối đồng bào VN, và ngược lại có dấu hiệu gắn bó với các thế lực bên ngoài nhiều hơn, đặc biệt là đang có xu hướng thụt lùi và muốn xóa bỏ đường lối mục vụ nêu trên mà thế hệ các GMVN đàn anh đã dày công xây đắp, cũng như các Đức Giáo Hoàng tiền nhiệm luôn quan tâm chăm sóc với tất cả tấm lòng hiền phụ, và hằng mong được sinh nhiều hoa trái của Chúa Thánh Thần tại VN như lòng Chúa mong ước!
Trong thực tế, nhiều anh chị em giáo dân tại VN chúng con biết rõ thực trạng trên của GHVN, và HĐGMVN cũng đã biết rõ, nhưng lại bưng bít vì sợ làm mất uy tín của các GMVN và “sợ bọn Cộng sản VN lợi dụng phá đạo”.
Trước đây, chúng con đã tâu trình hai Đức Giáo Hoàng tiền nhiệm rõ “tình trạng lẫn lộn giữa đức tin và chính trị, cũng như những dấu hiệu xuống cấp của GHVN”. Tuy nhiên, lòng tôn kính đặc biệt đối với Đức Giáo Hoàng và các Đấng, các bậc trong Hội Thánh Chúa VN, cũng như lòng nhiệt thành hy sinh xây dựng GHVN của nhiều giáo dân VN không vì thế mà sút giảm. Đây là một truyền thống rất quý báu của GHVN.
Chúng con cũng buộc phải thừa nhận rằng chưa bao giờ GHVN xuống cấp một cách thê thảm như hiện nay, một điều chưa từng có là một số ít GMVN đã thoái hóa biến chất, lạm dụng tình dục, Tòa Thánh phải can thiệp buộc nghỉ hưu non. Trong khi đó, tình trạng thoái hóa biến chất và lạm dụng tình dục, kể cả với nữ tu của giáo sĩ ngày càng phát triển trầm trọng, thậm chí xảy ra nạn đồng tính luyến ái ở một vài tu viện. Nhưng đây chỉ là những tội lỗi muôn thuở của con người còn có thể giải quyết đẩy lùi được, nếu GHVN thực sự quyết tâm xóa bỏ tình trạng nể nang bao che, không sợ “vạch áo cho người xem lưng” và có những biện pháp thích đáng dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Trong lá thư này, chúng con muốn nhấn mạnh tình trạng tôn giáo hóa chính trị, cũng đồng thời là chính trị hóa tôn giáo của GHVN, và hy vọng rằng trong thời gian tới, chúng con sẽ tâu lên Đức Thánh Cha một cách cụ thể khách quan, thực trạng xuống cấp của GHVN với những thách thức nghiêm trọng GH này cần phải đối mặt. Thực vậy, theo nhận định của nhiều Giám Mục (GM), Linh Mục (LM), tu sĩ và giáo dân VN thì tình trạng tôn giáo hoá chính trị cũng đồng thời là chính trị hóa tôn giáo là mối nguy hiểm về lâu dài cho GHVN, đó chính là hoạt động chính trị “chống Cộng” theo kiểu đảng phái của GHVN nhân danh đức tin Công giáo, lãnh đạo các cấp của GH chạy theo danh vọng, quyền lực và tiền bạc, đánh mất niềm tin của cộng đồng dân tộc VN, mà nhiều thế hệ người CGVN đã nỗ lực vun đắp, thậm chí phải hy sinh cả danh dự lẫn mạng sống của mình, nhằm xóa tan cách biệt hận thù giữa những người anh em lương và giáo, hữu thần và vô thần, công giáo và cộng sản, do các thế lực ngoại bang gây ra tại VN từ hàng trăm năm qua, và có thể bùng lên bất cứ lúc nào khi có cơ hội, nhất là khi được các nhà hoạt động chính trị trong tôn giáo lợi dụng thời cơ kích động!
Bây giờ có những GMVN buồn phiền lo lắng về “tình trạng lạm phát đức tin” trong GHVN. Bất cứ hành động nào nhiều GM, LM cũng đều công khai tuyên xưng “đức tin”. GM Paul Nguyễn Thái Hợp viết Nhân Năm Đức Tin trong các văn bản tố cáo lên án chế độ CSVN, ví dụ
Tháng 5 năm 2012, Ủy Ban Công lý và Hòa bình thuộc HĐGM đưa ra một bản “Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay”, trong đó đề cập đến một số vấn đề nhức nhối, hệ trọng liên quan đến nền kinh tế Việt Nam, luật đất đai, môi trường xã hội, chủ quyền quốc gia, pháp luật, sinh thái, vai trò của trí thức, giáo dục y tế và tự do tôn giáo. Sáu tháng sau đó, Ủy ban này đã có “Bản phúc trình về tình hình công lý, hòa bình và nhân quyền trong xã hội Việt Nam hiện nay, trong đó nêu rõ những tệ nạn đang xảy ra tại Việt Nam.
Nội dung những tố cáo này không phải vì công lý mà cũng chẳng có hòa bình gì như tiêu đề mà nó mang tên. Đây chẳng qua chỉ là những bản cáo trạng bôi đen, bi thảm hóa tình trạng xã hội Việt Nam, nhằm gây bất ổn chính trị tại VN, phục vụ cho ý đồ đen tối của thế lực nào đó đối với VN mà thôi!
Đặc biệt các hoạt động mục vụ đấu tranh của Dòng Chúa Cứu Thế VN, cũng đều nhân danh đức tin và năm đức tin này, từ việc quyên góp tiền có tính cách bắt buộc, cho đến việc đấu tranh đòi đất, đòi tài sản, hay là hiệp thông tràn lan với các thành phần xã hội đấu tranh chống lại Nhà nước VN, kể cả với những thành phần đòi lật đổ chính quyền VN, hoặc các văn thư, các tuyên ngôn lên án chính quyền, đòi hủy bỏ hiến pháp của VN…
Chắc chắn rằng Đức Thánh Cha biết rõ hơn chúng con, nếu như ở Pháp, theo luật tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước, một linh mục lên tòa giảng hoặc dán bích chương trong nhà thờ đả kích dù chỉ một viên chức Nhà nước đương thi hành công vụ, sẽ bị ra tòa xử phạt vì tội vi phạm tự do tôn giáo. Trong khi đó thì ở giáo phận Vinh, tỉnh Nghệ An, khi một nhóm hơn mười thanh niên Công giáo sinh hoạt tông đồ giáo dân đi rải truyền đơn chống chính quyền bị đưa ra tòa lại được Giáo Hội loan báo và các phương tiện thông tin đại chúng loan tin đây là các thanh niên đi hoạt động công giáo! Tất cả đều tuyên xưng rằng “đó là lập trường đức tin của GHCG duy nhất, thánh thiện và tông truyền”!
Vì thế, có những GM, LM, giáo dân đau buồn và lấy làm hổ thẹn cho GHVN, vì chưa bao giờ Hội Thánh Chúa tại VN lại trở thành một tổ chức đối đầu với bất cứ chế độ Nhà nước đương quyền nào tại VN, kể cả trong các thời kỳ đạo Chúa bị bách hại, các Thánh Tử Đạo VN bị truy sát. Nay nhân việc chính quyền Cộng sản VN (CSVN) tham khảo ý kiến nhân dân để tu chỉnh Hiến pháp, một việc bình thường trong sinh hoạt dân chủ, thì HĐGM lại hành động y hệt như tổ chức chính trị “hữu danh vô thực” trong nước lẫn hải ngoại.
Giáo hội lấy 7 triệu người CGVN ra làm con ngáo ộp hù dọa Nhà nước VN, mà theo nhận định của một trí thức CGVN hải ngoại (Đỗ Mạnh Tri), bây giờ HĐGMVN đã công khai phủ định chế độ CSVN và không đối thoại với Chính quyền VN nữa. Ông viết: (http://www.nuvuongcongly.net/cong-giao/moila_hoithanh/)
Lá thư ngày 01/3/2013, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và nhân dân cả nước một số nhận định và góp ý. Đọc kỹ góp ý của Giám mục Việt Nam, điều hiển nhiên là cái Hiến pháp 1992 này không thể sửa. Về lý luận, nó mâu thuẫn. Trên thực tế, nó tồi tệ ….”. Điều thực sự mới và mang tính đột phá trong bản lên tiếng của HĐGMVN lần này là các ngài bình thản và công khai cắt đứt dây thòng lọng. Tức phải  phủ định chính người cầm dây thòng lọng . Nói khác đi: không có đối thoại với người cầm dây thòng lọng, vì đối thoại trong trường hợp này là công nhận dây thòng lọng.”
Và theo các nhà bình luận chính trị thì không tìm thấy trong đó ý kiến nào đóng góp cho ích quốc, lợi dân. Nội dung từ đầu đến cuối giống như một bản cáo trạng với luận điệu của các chính khách hoạt động chính trị, lên án toàn bộ hệ thống chính trị hiện tại của VN, rằng HDGM đã “điểm đúng tử huyệt của chế độ CSVN”. Nội dung lá thư này của HĐGMVN thực chất là yêu cầu xóa bỏ hiến pháp hiện hành của VN và cách làm là áp đặt một thể chế chính trị mới cho chế độ VN hiện nay, chứ không có sửa đổi gì hết!
Đúng như một Giám Mục VN hải ngoại nhận định rằng “Thư nhận định và góp ý của HĐGMVN và Tâm thư Kêu gọi ủng hộ Bản góp ý sửa đổi Hiến pháp của HĐGMVN của các Giám mục VN hải ngoại đang tạo nên một luồng gió mới nhằm quét sạch chế độ CSVN ! ”.
Tại đây, chúng con không dám mạo phạm phê phán thiện chí của HĐGMVN, nhưng cùng với một số GM, LM và giáo dân VN chúng con nhận thấy rằng việc góp ý hiến pháp chỉ là một sự kiện, mà HĐGM muốn góp phần xây dựng hiến pháp cho hợp lý và hợp lòng dân”, và “ý thức trách nhiệm công dân, nhân danh Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ban Thường vụ kính gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và nhân dân cả nước một số nhận định và góp ý”.
Nhưng quan sát thực tế một cách khách quan, người ta nhận thấy rằng lá thư này vừa hàm hồ về danh nghĩavừa khuất tất trong biên soạn lại vừa có tính cách vận động chính trị đảng phái trong việc phổ biến, còn nội dung chỉ là sự tiếp nối Thư Chung 1951 và Thư Mùa Chay 1960, nên từ hình thức đến nội dung thư này không phải là thư góp ý bình thường với ý thức góp phần xây dựng nữa.
Thực vậy, có những ý kiến cho rằng Văn bản Thư góp ý ngày 01.3.2013 này có vẻ lúng túng, tiền hậu bất nhất “danh không chính, ngôn không thuận”, giống như “nửa dơi nửa chuột”: “Về danh nghĩa là thư của Thường vụ HĐGM, vậy Thường vụ có họp bàn thảo luật nghiêm túc hay không, hay là chỉ hội ý, trao đổi qua loa giữa một vài vị GM đầu nậu ? và tựa đề chỉ đề Các Giám mục nhận định và góp ý”. Các Giám mục gồm những ai, bao nhiêu người, có họp bàn thống nhất ý kiến không? Nhưng đầu thư lại viết là “nhân danh Hội đồng Giám Mục Việt Nam. Ban Thường vụ kính gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa dổi Hiến pháp năm 1992 và nhân dân cả nước một số nhận định và góp ý ”.
Đồng thời, thư gửi đến chính phủ và nhân dân cả nước là một thông điệp, là việc làm rất quan trọng, không phải là tờ truyền đơn lá cải, không phải là thư rơi, thư rác trên internet. Vậy Quy chế HĐGM có cho phép các GMVN nhân danh như thế này không ? Nhất là trong một việc nghiêm túc có tính hệ trọng Quốc gia, liên quan đến quyền lợi của toàn thể giáo dân, đến danh dự của cả giáo hội địa phương và GHCG toàn cầu ? Và quy chế có cho phép đặt HĐGM ngồi ngang hàng với các tổ chức tự xưng là giáo hội (không còn tồn tại) của ông Thích Quảng Độ, ông Lê Quang Liêm…? Chúng con không biết các vị Giám Mục nghĩ sao khi đứng chung với các ông này, và các GM có còn mặt mũi nào để gặp các Hòa Thượng, Thượng tọa, các vị chức sắc trong các giáo hội (Phật giáo, PG Hòa Hảo) đương chính thức hoạt động, là các giáo hội nghiêm trang đạo pháp, được đông đảo tín đồ và xã hội thừa nhận.
GM Nguyễn Thái HợpNgoài ra, thư góp ý đã mạo xưng khi nhân danh HĐGM và khuất tất trong biên soạn: Do vậy chúng con được biết khi được hỏi về Thư góp ý nói trên, có vị GM đã nói rằng “Thư này không phải của HĐGM mà chỉ là của ba GM”. Có dư luận trong CG rằng GM Paul Nguyễn Thái Hợp thuộc nhóm Kiến nghị 72 đã xúi bẩy GM Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó Chủ tịch HĐGM áp lực Tổng GM Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ký trước vào Thư góp ý này và GM Tổng thư ký Cosma Hoàng Văn Đạt ký tên hiệp thông sau. Dư luận rất mong GM Nguyễn Thái Hợp là người hắng hái đấu tranh cho “sự thật,công lý và hòa bình”“chỗ nào cũng ký tên, nơi nào cũng hiệp thông” thành thật khai báo sự thật này cho 7 triệu người CGVN được suy tôn công đức của Ngài, đã vận động thành công cho HĐGM chơi một cú ngoạn mục, một đòn quyết định của HĐGM hợp ý nguyện nhân dân, một vố đau bất ngờ chưa từng có cho CSVN vô thần”!
Thực sự, việc phổ biến thư góp ý của HĐGM có tính cách vận động chính trị đảng phái lộ rõ như sau:
Thư góp ý đề gửi Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và nhân dân cả nước. Như thế là đánh lộn sòng giữa việc góp ý chân thành với việc ra một bản Tuyên cáo chính trị. Bởi lẽ thư góp ý về sửa đổi thì cứ gửi thẳng cho Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, việc gì cần gửi cho nhân dân cả nước ?
Và tuy rằng Linh mục thư ký Văn phòng HĐGM có mang thư đến trao cho Văn phòng Ban soạn dự thảo ngày 1/3/2013. Nhưng trước đó, khi Giám mục Chủ tịch và Giám mục Tổng Thư ký còn chưa đặt bút ký tên, bản văn này đã được chuyển ra nước ngoài, phổ biến trên các mạng Internet ở nước ngoài.
Trong khi đó, dường như có sự phối hợp nhịp nhàng giữa GHCG trong nước và hải ngoại tạo nên một phong trào rùm beng áp đặt giáo dân và vận động chữ ký để gây sức ép với chính quyền VN, giống như một trận “nội công ngoại kích” khá ngoạn mục: bên trong thì đưa xuống từng hộ giáo dân để áp đặt, bên ngoài thì cầu viện ngoại binh; đồng loạt phổ biến trên các mạng xã hội, thông báo, dán trong nhà thờ tại một số địa phương. Ở Đồng Nai, Văn phòng Tòa Giám mục Xuân Lộc chuyển đến các Hội đồng giáo xứ, yêu cầu đưa đến từng hộ gia đình giáo dân và dặn dò họ phát biểu với chính quyền theo nội dung thư góp ý của HĐGM, và còn nhiều hành động cụ thể tuyên truyền thách thức khác ở một số giáo xứ, giáo phận. Thậm chí tại một vài giáo phận tích cực phổ biến “Lập trường chính trị mới” này của HĐGM ngay trong thánh lễ tại các nhà thờ, gửi thư ngõ đến từng gia đình CG vận động chữ ký ủng hộ HĐGM. Và chỉ hai ngày sau khi thư góp ý được công bố, các GMVN hải ngoại ở Mỹ và Úc đã gửi tâm thư liên kết, vận động ký tên ủng hộ trên toàn thế giới.
Giám mục VN hải ngoại Vincent Nguyễn Văn Long tại Úc Đại Lợi đã rao giảng rằng:

Giám Mục Vincent
Nguyễn Văn Long ở Úc
Lá thư Nhận định và góp ý của các GM VN cùng tâm thư liên kết kêu gọi của các GM VN tại hải ngoại ủng hộ bản góp ý sửa đổi Hiếp pháp của Hội đồng GM VN, là những tiếng chuông vàng gióng lên đúng vào lúc cao trào lịch sử đang dâng cao, được dư luận trong ngoài nước đặc biệt chú ý”.
Và vào ngày 24.4.2013, cũng chính vị GM hải ngoại này đã tập hợp một cuộc biểu tình trước tòa Nhà quốc hội Úc, Ông đã đọc một bài diễn văn rất hiếu chiến mạt sát chế độ CSVN, kêu gọi đồng bào VN trong và ngoài nước hãy đứng dậy chống Trung Quốc và liên kết lật đổ bạo quyền CS tại VN trong tinh thần Tử vì đạo của “Kinh Thánh Kitô Giáo”, theo kiến nghị của HĐGMVN.
Ông phát biểu:
“Kính thưa toàn thể quý vị cùng đồng bào thân yêu trong và ngoài nước,
Hôm nay, chúng tôi những người quan tâm đến vận mệnh quê hương và tiền đồ dân tộc, đến trước tòa nhà Quốc hội Úc Đại Lợi, biểu tượng của tự do và dân chủ, để bày tỏ sự liên đới với đồng bào quốc nội trong tiến trình dân chủ hóa đất nước… Sau bao thập niên sống trong một ý thức hệ ngoại lai, vong bản và hoàn toàn băng hoại, người dân Việt Nam  đang đứng lên truất phế cộng nô và phục hồi quyền làm chủ vận mệnh đất nước,…
Quý vị và đồng bào thân mến,
Trong kiến nghị của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các ngài đã mạnh dạn tuyên bố là phải phục hồi “quyền làm chủ của người dân”. Trong Kinh Thánh Kitô Giáo có câu “Người gieo trong đau thương sẽ gặt hái trong vui cười” …Vì sự nghiệp của tiền nhân và vì tương lai của những thế hệ nối tiếp, chúng ta hãy vượt qua sự vô cảm và sự sợ hãi. Người Việt yêu nước khắp nơi, chúng ta hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là chế độ Cộng Sản”.
Thực là nực cười ! Về mặt công dân, chắc chắn Ông Nguyễn Văn Long có quốc tịch Úc và là một công dân Úc. Về mặt pháp lý tôn giáo và tổ chức giáo hội, Giám Mục Vincent Nguyễn Văn Long là giáo sĩ thuộc Giáo hội Úc và Hội đồng GM Úc, không thuộc Giáo hội Việt Nam. Tại sao Ông Long không đọc kinh cầu nguyện trong nhà thờ mà lại đến trước trụ sở cơ quan Nhà nước của một nước ngoài để gọi là đốt nến cầu nguyện, tập hợp, biểu tình Hiệp thông, Liên kết với Giáo hội trong nước ? GHCGVN đã từng nhiều lần bị mang tiếng là “cõng rắn cắn gà nhà”. Vậy chúng con chưa được biết là HĐGMVN có ý kiến gì với HĐGM Úc hay không, hay vẫn cứ im lặng “hiệp thông trong đức tin” ?
Những hành động cầu viện ngoại binh và trong ngoài phối hợp tuyên truyền, phổ biến thư góp ý như trên là một hành động chính trị, đảng phái chính trị rõ rệt cụ thể, không còn đơn thuần chỉ là việc góp ý kiến và trình bày quan điểm đơn thuần trong nội bộ nhân dân khi được Ủy Ban Dự thảo kêu gọi góp ý ! Người ta cho rằng đây là một việc làm không nghiêm túc đối với một tổ chức đạo mạo đáng kính như HĐGM. Đây là hành động “phá đạo, phá đời”, chứ không phải là “tốt đạo, đẹp đời” nữa! Đúng là HĐGMVN trong đó có những công dân Giám Mục nhạy bén về chính trị đã biết chớp thời cơ không thua kém gì các chính khách lão luyện chuyên nghiệp chính trị !
Thư góp ý của HĐGMVN về hình thức không nghiêm túc, còn về nội dung thực chất chỉ là sự tiếp nối Thư Chung 1951 và Thư Mùa Chay 1960, khiến người ta nhận thấy đã gây ra những vấn đề nghiêm trọng. Nó vừa xa lạ với bản chất việc loan báo Tin Mừng, vừa có tính chất lật lại lịch sử Việt Nam, vừa có thể kích động những mối hiềm  khích trong các mối bang giao quốc tế và trong quan hệ với các tôn giáo khác. Chúng con xin tóm lược từ các nguồn dư luận trong ngoài nước và trên thế giới trình lên Đức Thánh Cha như sau:
1. Thư góp ý có nội dung trái với đường lối mục vụ của Giáo hội Công giáo hoàn vũ và tại VN.
2. Thư góp ý là sự kế thừa lỗi thời – giống như thứ cặn bã còn sót lại của Thư Chung 1951 và Thư Mùa Chay 1960. Trước đây khi CS chưa nắm chính quyền thì hàng giáo phẩm hô hào chống Cộng, ngăn cấm và ra vạ tuyệt thông những LM, giáo dân chống ngoại xâm ủng hộ CS lên nắm chính quyền. Ngày nay CS đang nắm chính quyền, các GMVN nhân cơ hội chờ thời cơ để “tuyên xưng đức tim”. Mượn cớ tu chính hiến pháp và cải cách chính trị, GMVN đã khơi lại chiến tranh ý thức hệ hữu thần, vô thần, lật lại lịch sử dân tộc VN và kêu gọi xóa bỏ Đảng CS, xóa bỏ ý thức hệ CS, xóa bỏ Chính quyền CSVN, trong khi việc tu chính hiến pháp và cải cách hệ thống chính trị là việc làm bình thường ở một quốc gia dân chủ. Hiến pháp của Mỹ đã có 27 tu chính án có hiệu lực và Quốc hội Mỹ vẫn còn nghiên cứu các đề nghị tu chính khác cho hiến pháp của Hoa Kỳ.
3. Thư góp ý vi phạm quyền tư do của người công dân công giáo và xúc phạm đến đồng bào VN, vì HĐGM không có tư cách gì để gửi thư góp ý đến “nhân dân cả nước”. Trên “cả nước” có mấy chục triệu người góp ý sửa đổi hiến pháp họ gửi thẳng cho Ban soạn thảo, có ai gửi cho HĐGM đâu ? Ở trong một nước mà Công giáo chỉ là thiểu số không đến 10% dân số, không có nhiều tại địa phương, đây là một việc hợm hĩnh đến lố bịch, chỉ là một hình thức quảng cáo, đánh bóng tư tưởng chính trị lỗi thời của mình áp đặt cho “nhân dân cả nước”. Người ta không hiểu nổi HĐGM kêu đòi tự do và nhân quyền cho ai trong khi chính mình vi phạm tự do và nhân quyền của người khác ?
4. Thư góp ý ngăn cản việc lập quan hệ bình thường giữa Nhà nước VN và Tòa Thánh Vatican. Đòi hỏi tuyên bố xóa bỏ Thư Chung 1951 và Thư Mùa Chay 1960 và phải xin lỗi dân tộc VN, nhất là với những ai là nạn nhân của hai thư này, là một trong những điều kiện tiên quyết mà VN đòi Tòa Thánh phải thực hiện. Nay các GMVN  lôi đống cặn bã này ra tuyên chiến với chế độ CSVN, nhằm mục đích gì, hay là khuyến cáo Tòa Thánh đừng thiết lập quan hệ ngoại giao với chế độ CSVN sắp sụp đổ ?
5. Thư góp ý kích động Công giáo Trung Hoa chống lại nỗ lực của Tòa Thánh nhằm giải quyết vấn đề giáo hội Công giáo tại Trung Quốc và lập lại quan hệ bình thường Vatican-Trung quốc. Liệu các GM Việt Nam có dám công khai hiệp thông cố vũ các Giám Mục Công Giáo Trung Quốc gửi thư cho Nhà nước Trung Hoa, đòi xóa bỏ Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay không ? Và khi tiên thiên bài xích chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào cộng sản, HĐGM vi phạm quyền tự do tư tưởng của những người CS và những người nghiên cứu chủ nghĩa này trên toàn thế giới. HĐGM đòi tự do tư tưởng cho ai, sao lại đành tâm chà đạp tư tưởng của người khác, hay Cộng Sản là ma quỉ nên HĐGM có quyền ra lệnh tiêu diệt nó dưới bất cứ hình thức nào, như giáo lý của hai Thư chung chống Cộng nổi tiếng nêu trên đã truyền dạy ?
6. Thư góp ý đi ngược lại Tông thư Thiên niên kỷ thứ 3 và Sứ điệp Thượng Hội đồng Giám Mục Á Châu về việc truyền giảng Tin Mừng tại những nước có hệ tư tưởng khác Kitô giáo, các nước có các tôn giáo có truyền thống lâu đời như Phật giáo, Hồi giáo, khổng giáo,v.v…, kể cả các hệ tư tưởng xã hội Chủ Nghĩa.
Chắc chắn Đức Thánh Cha còn nhớ rằng Đức Thánh Cha Benêđictô XVI đã phải xin lỗi Hồi giáo, vì lỡ lời phát biểu thuần túy về học thuật đụng chạm kinh coran, bị xem là báng bổ Hồi giáo, tại một Đại học CG Đức, và đã bị thế giới Hồi giáo chỉ trích thậm tệ ra sao, nhưng không một người CG nào dám hiệp thông với Ngài, và không có một HĐGM nào dám gửi thư góp ý với Hồi giáo đòi xóa bỏ kinh coran ủng hộ Ngài ! Tương tự là phát biểu của Đức Gioan Phaolô II về “vô thần” của đạo Phật trong tác phẩm “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã bị Phật giáo VN và thế giới phê phán là có tính hạ thấp Phật giáo.
Trong thư này, chúng con xin được đặc biệt phúc trình vài vấn đề nghiêm trọng nêu trên (số 1 và 2) tiếp theo sau đây:
Các GM có thể góp ý cho Nhà nước là điều cần thiết và thường được làm trong giáo hội, nhưng cần giữ “bản chất của Giáo hội không phải là chính trị” như Đức Thánh Cha đã vạch rõ và phải tuân theo nguyên tắc “tách biệt giữa Nhà nước và Giáo hội”, chỉ nêu những nguyên tắc theo tín lý và giáo lý Công giáo mà không đi vào những  lựa chọn chính trị cụ thể như Đảng này hay Đảng nọ, chế độ chính trị này hay chế độ chính trị khác. Việc đó thuộc quyền tự do của giáo dân lựa chọn theo lương tâm.
Thí dụ Giáo hội Công giáo nước Anh đóng góp ý kiến xây dựng nước Anh mà không đòi hỏi nước này bỏ chế độ Nhà nước Quân chủ lập hiến và truất phế Nữ Hoàng. Hội đồng Giám Mục Malaysia, Indonesia, Pakistan, Sri Lanla, Thái Lan,v.v… không phê phán bài xích hệ tư tưởng Hồi giáo, Phật giáo mặc dù các quốc gia này lấy Hồi giáo, Phật giáo là quốc đạo và chọn tư tưởng Hồi giáo, Phật giáo là hệ tư tưởng chính thống của Nhà nước.
Một Đảng hay nhiều Đảng là sự lựa chọn của người dân mỗi nước tùy theo hoàn cảnh cụ thể, phải tuân theo quy luật khách quan, không thể do ý chí chủ quan áp đặt của một người, một Đảng hay nhiều Đảng là sự lựa chọn của người dân mỗi nước tùy theo hoàn cảnh cụ thể, phải tuân theo quy luật khách quan, không thể do ý chí chủ quan áp đặt của một người, một Đảng hay của một nhóm người một tổ chức dù nhiều hay ít.
Ở Mỹ các Giám Mục không thể vì muốn chọn Đảng Cộng Hòa mà đòi xóa bỏ Đảng Dân Chủ, cũng không thể khuyến khích lập thêm một Đảng Dân chủ Xã hội Thiên Chúa giáo như ở một số nước Châu Âu. Ngay Châu Âu cũng đã loại bỏ “căn tính kitô giáo” ra khỏi Hiến pháp của mình từ lâu, dù Tòa Thánh và các GHCG tại đây liên tục đòi hỏi chưa thành công việc Hiến pháp này phải mang “căn tính kitô”, nhưng chưa bao giờ bài xích áp lực xóa bỏ hiến pháp đó. Ở Sigaphore dù Giáo hội hay ai đó muốn có hai ba Đảng luân phiên cai trị, nhưng thực tế vẫn chỉ có một Đảng của Ông Lý Quang Diệu cầm quyền. Mỗi giáo sĩ dù là Linh mục hay Giám mục với tư cách công dân đều có quyền có một lập trường chính trị nhất định, và không được áp đặt lập trường của mình cho người khác.
Tuy nhiên, một tổ chức giáo hội với tư cách nhiệm thể của Chúa Ki tô không thể như vậy. Đi vào những lựa chọn chính trị cụ thể như trong Thư góp ý của HĐGM là một sai lầm trái với Giáo huấn của Cộng đồng Vatican II về Thái độ của Giáo hội đối với các Cộng đồng chính trị (Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes và các Văn kiện tiếp theo), trái với giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng với Giáo hội Công Giáo Việt Nam !, nhất là như chính Đức Thánh Cha vừa nhắc lại mới đây, và vi phạm nguyên tắc tách biệt giữa Nhà nước và Giáo hội từ hai thế kỷ nay.

Nhiều người CGVN và nhiều người VN lấy làm đáng tiếc là thư góp ý này thực chất lại là sự tiếp nối lỗi thời Thư chung của các Giám Mục Đông Dương năm 1951 và Thư chung Mùa Chay năm 1060 của các Giám Mục miền Nam VN, như một thứ đức tin chống Cộng, căm thù CS ăn sâu vào tiềm thức của một số người trong hàng giáo phẩm CGVN, nay có thời cơ ngốc đầu trỗi dậy ! Thực vậy, sai lầm này là hệ lụy đau xót của mối quan hệ không ngừng nhức nhối giữa hàng giáo phẩm Công giáo với các chế độ chính trị ở Việt Nam kể từ khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam, với “Thập giá và Lưỡi gươm”, nhân danh “đi mở mang Nước Chúa”.

Từ đó đến nay người dân Việt Nam (VN) đã trải qua nhiều chế độ chính trị với các pháp lý khác nhau;
- Từ giữa thế kỷ XIX là chế độ thuộc địa do người Pháp cai trị dựa theo hàng ước của Triều đình nhà Nguyễn ký với Nhà nước Đại Pháp.
- Năm 1945 những người Cộng sản vận động toàn dân VN đứng lên làm cách mạng giành độc lập thành công, họ đã thiết lập chế độ Cộng sản do Ông Hồ Chí Minh làm lãnh tụ và là Chủ tịch Nước. Họ ban hành bản Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập năm 1946.
- Tuy nhiên nước Pháp được sự hỗ trợ của Mỹ và các nước đồng minh đã lập tức quay trở lại Việt Nam giày xéo đất nước trong chiến tranh tàn khốc kéo dài 30 năm chia làm 2 thời kỳ: 1946-1954 do Pháp chủ xướng, được Mỹ chi viện và 1954 – 1975 do Mỹ cầm đầu. Tại hai cuộc chiến tranh này những người cầm đầu chiến tranh xâm lược đã tổ chức “thánh chiến”, gọi đó là một cuộc “chiến tranh ý thức hệ” giữa Tôn giáo và Cộng sản, nêu lý do “bảo vệ nền văn minh Ki tô giáo” hình thành khối “quốc gia chống Cộng” đi theo “lính viễn chinh của Chúa Ki Tô” để “bảo vệ thế giới tự do”  nhất là tự do Tín ngưỡng Tôn giáo chống lại “bọn quỷ đỏ Cộng sản độc tài vô thần”
Các vị Giám mục dưới sự chủ trì của các vị Khâm Sứ Tòa Thánh đã mau mắn ban hành hai Thư mục vụ nổi tiếng: “Thư chung của các Giám Mục Đông Dương năm 1051” kết  án chủ nghĩa Cộng Sản tự bản chất là xấu xa, Công Giáo và Cộng Sản không thể đội trời chung, và ra vạ tuyệt thông “bất cứ ai giúp đỡ Cộng sản giành chính quyền” – và chín năm sau là – “THƠ CHUNG về vấn - đề Cộng Sản vô -thần của các Đức Giám – Mục miền Nam- MÙA CHAY 1960” (nguyên văn tiêu đề của Thư chung này) dạy phải “học hỏi Thông điệp DIVINI REDEPTORIS của Đức Giáo Hoàng Piô XI lên án Cộng Sản vô thần xung khắc tuyệt đối với học thuyết Công giáo chối bỏ hết mọi quyền tự do của con người… Vậy muốn cho đạo Thánh được nguyên vẹn người CG phải phủ nhận lý thuyết CS và những áp dụng của nó đến tận cùng, phải thấu rõ mối hiểm họa CS, nguy hại và nham hiểm đến chừng nào trong việc tiêu diệt đức tin CG của chúng ta”. Hai thư này đi vào lịch sử như một món nợ của Công giáo đối với dân tộc Việt Nam, và thành điều kiện tiên quyết của Nhà nước Việt Nam buộc Tòa Thánh phải công khai rút bỏ và xin lỗi dân tộc Việt Nam.
Năm 1955 tại Sài Gòn được Mỹ hậu thuẫn, Thủ tướng Gioan Baotixta (G.B) Ngô Đình Diệm truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại, hủy bỏ việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất hai miên Nam Bắc năm 1956 theo Hiệp định đình chiến Genève, lập ra Nhà nước Việt Nam Cộng Hòa, trở thành Tổng Thống. Hiến pháp của nền Đệ nhất Cộng Hòa Tuyên xưng niềm tin và “Đấng tối cao ”, chọn thuyết Nhân vị Thiên chúa giáo của Edmond Mounler là nền tảng tư tưởng của xã hội. Đáp lại, năm 1957 thực hiện ở miền Bắc. Đáng chú ý các giám mục ở miền Nam lúc đó được Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, Anh ruột của Tổng thống G.B Ngô Đình Diệm cầm đầu đã tích cực ủng hộ việc thiết lập một Nhà nước Thiên Chúa giáo để chống lại Cộng sản vô thần. Do bị chính quyền Công giáo đàn áp, Phật giáo ở miền Nam đã nổi dậy dấu tranh, dẫn đến sự sụp đổ của ông G.B Ngô Đình Diệm năm 1963.
Các tướng lĩnh lên nắm quyền, sau ba năm tranh giành địa vị, năm 1967 Trung Tướng tân tòng Ma- ti-nô Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống, tuyên bố nền đệ nhị Cộng Hòa. Nhà nước ở miền Nam thời đệ nhị Cộng Hòa tuy không lấy Công giáo làm Quốc giáo, nhưng CG đã dùng thế quyền để đưa “Đấng thiêng liêng” thần quyền vào Hiến pháp, và vẫn giành nhiều ưu đãi cho Công giáo. Tổng thống và nhiều viên chức cao cấp là người Công giáo. Đa số nghị sĩ dân biểu, 60% sĩ quan cấp tá, 40% binh sĩ, những người muốn thăng quan tiến chức, các gia đình có con em theo kháng chiến, những ai không muốn bị nghi là Cộng sản đều phải cải đạo, theo Công giáo. Những người Cộng sản ở miền Nam bị truy sát, năm 1960 đã thành công trong việc vận động nhân dân miền Nam đồng khởi, tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, được sự hỗ trợ to lớn của chính quyền và nhân dân miền Bắc. Cuộc kháng chiến này đã buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán hòa bình và rút quân khỏi Việt Nam.
Năm 1975, chính quyền Sài gòn sụp đổ. Cộng sản Việt Nam một lần nữa lại giành chiến thắng, thống nhất hai miền Nam Bắc, lập nên Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, ban hành hiến pháp 1980. Sau 10 năm sao chép mô hình xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội trong nước trầm trọng, cùng với khủng hoảng toàn diện của mô hình chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Năm 1986 Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới, được người dân hưởng ứng, giúp Nhà nước Cộng sản Việt Nam trong thoái trào của Chủ nghĩa Cộng sản thế giới thoát khỏi sụp đổ, vẫn tồn tại và phát triển. Họ sửa đổi Hiến pháp 1980, ban hành Hiến pháp 1992. Sau hơn 20 năm đổi mới có kết quả, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thấy cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới hơn nữa. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 họ sửa đổi và bổ sung Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991, và để thể chế hóa Cương lĩnh sửa đổi và bổ sung này, họ đề nghị Quốc hội sửa đổi và bổ sung Hiến pháp năm 1992.
Trong 70 năm Việt Nam đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước với bao lần thay đổi chế độ chính trị, bao lần thay đổi Văn bản Hiến pháp có liên quan, các Giám mục Việt Nam thường ít tham gia. Chúng con không hiểu tại sao trong cuộc sửa đổi Hiến Pháp của Nhà nước Việt Nam lần này, một vài Giám mục lại hăng hái đến thế, lấy cả danh nghĩa của HĐGM, của Giáo hội Công giáo Việt Nam để lên tiếng “một cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết”.
Điểm lại mối quan hệ của Giáo hội CG với các chế độ chính trị trong quá trình trên, cho thấy Giáo hội vẫn chưa thoát khỏi “Hội chứng chiến tranh Việt Nam”, và các bức thư góp ý nhân danh HĐGM chỉ là tiếp nối lỗi thời lạc hậu sau hơn 50 năm của (bai)? Bức thư mục vị chống Cộng nổi tiếng trong thời chiến tranh lạnh, là tàn dư và cặn bã còn sót lại trong một vài Giám mục, có người nuôi những hận thù cá nhân. Như có vị khi khi còn nhỏ đã được gia đình tổ chức bơi qua sông phân cách hai miền Bắc Nam để trốn thoát chế độ Công sản! Nhiều người trong GHVN biết rõ Vị này, ngay sau khi về nước đã nuôi “tham vọng làm Giám mục”, Ông đi từ Nam ra Bắc vận động các Giám mục đồng thuận tiến cử mình rằng “Con có xứng làm Giám mục giáo phận X không?” Đồng thời ông lấy lòng chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, kể cả hối lộ để được chính quyền ủng hộ chấp thuận cho Tòa Thánh bổ nhiệm Ông. Giám mục này ngay sau thánh lễ hoành tráng “vinh quy bái tổ” chức Giám mục của mình, đã tổ chức trọng thể thánh lễ đại trào cải táng cho thân phụ chết vì bị quy kết là địa chủ, tố cáo tội ác cải cách ruộng đất của CS đã xảy ra 56 năm rồi!
Trong khi toàn thể dân tộc VN, kể cả trong nước và ngoài nước đang hướng về việc hòa hợp hòa giải dân tộc, hàn gắn những vết thương chiến tranh, ra sức xây dựng đại cuộc đại đoàn kết dân tộc thì thư góp ý của HĐGM lần nữa đã làm sống lại hai bức thư chống Cộng nổi tiếng trong quá khứ, với những luận điệu sặc mùi chiến tranh tâm lý thời xa xưa “chống Công sản độc tài vô thần”, khi đại ngôn “vơ đũa cả nắm” cho rằng Đảng CSVN không được nhân dân chấp nhận, chủ nghĩa Mác Lê nin là khuôn phép bóp chết tự do. Và thư góp ý đã bộc lộ nguyên hình của vài GMVN thâm thù CSVN một cách “…dai dẳng không điểm dừng” (Ga13,31).
Đồng thời, có GM, LM và giáo dân quả quyết rằng người khởi xướng, chấp bút, lôi kéo HĐGM công bố thư góp ý này của HĐGMVN không ai khác chính là GM Paul Nguyễn Thái Hợp. Chúng con rất ước mong được HĐGM chính thức minh xác vấn đề này, kẻo gây cho nhiều người CGVN  nhiệt thành hoang mang mất đức tin, vì lâu nay vốn hết lòng tin tưởng ở các Đấng các bậc trong Hội Thánh Chúa, không có những thủ đoạn gian  xảo, âm mưu lắt léo, lưu manh trong chính trị như những người thế gian! Nhiều người CGVN đang yêu cầu đưng bao giờ có Giám mục VN nào manh tâm bán đứng Giáo hội Việt Nam, tiếp tục đầu cơ vào GHVN những “canh bạc bịp chính trị” nữa !
Về phần chúng con, cùng với nhiều GM, LM và giáo dân, chúng con băn khoăn không biết HĐGM căn cứ theo đường lối mục vụ nào để làm thư kiến nghị nêu trên cho Nhà nước Việt Nam, trong khi các tôn giáo khác như Phật giáo, Tin Lành…có nhân danh tổ chức giáo hội của họ để làm như HĐGM hay không? Chúng con cũng chưa được biết HĐGM nghĩ sao về việc này và có tường trình với Tòa Thánh về vụ việc này hay không, vì hành động nêu trên của HĐGM ảnh hưởng đển đời sống của GHCG tại VN, mà còn hệ lụy tới đường lối ngoại giao của Tòa Thánh đối với VN và nhiều nước trên thế giới? Nói tóm lại, chúng con tin rằng Đức Thánh Cah hiểu rõ hơn chúng con hành động này không thể không tác động lâu dài trong quan hện giữa Nhà nước VN và GHCGVN, cũng như trong quan hệ giữa Tòa Thánh Vatican và Nhà nước VN, bởi lẽ GHCGVN đã hành động trộn lẫn chính trị và đức tin đối đầu đối với một nhà nước có chủ quyền, nhân danh tổ chức GHCGVN trong hệ thống tổ chức của GHCG toàn cầu!
Và nhiều GM, LM và giáo dân chúng con cũng cả dám tin rằng thật là một sai lầm tai hại, khi nhân danh HĐGMVN để lôi kéo GHCGVN áp đặt cho NNVN một lập trường chính trị cụ thể như trong Thư đề ngày 1.3.2013 của HĐGMVN, đồng thời hàm ý rằng đó là ý nguyện của toàn dân VN, để gọi là “đồng hành với dân tộc VN, là người CG tốt, là người công dân tốt”.
Chúng con chưa được biết trong tư cách là một công dân yêu nước Argentina của mình, Đức Thánh Cha sẽ phản ứng ra saonếu như HĐGM ở đây lôi kéo GHCG áp lực đòi Chính quyền độc tại quân phiệt Argentina xóa bỏ Hiến pháp nước này, thay vì đấu tranh góp phần hoàn thiện nó? Và chúng con được biết Đức Thánh Cha đã thành lập Ủy ban đặc nhiệm cải tổ Giáo Hội Công giáo, có nhiệm vụ nghiên cứu để viết lại Hiến pháp mới của Vatican, căn cứ Hiến pháp có tên là Pastor Bonus (mục tử tốt lành) do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô     II ban hành năm 1988. Chúng con chưa được biết Đức Thánh Cha sẽ có thái độ nào, nếu có một HĐGM nào đó nhân danh hang triệu người CG yêu càu xóa bỏ Hiến pháp này của Tòa Thánh ?
Do đó, các GM, LM cho rằng như thế HĐGM đã đầu cơ chính trị lên tiếng đòi xóa sổ chế độ Nhà nước hiện này, nhằm đầu tư vai trò chính trị của GHCG cho một chế độ Nhà nước VN tương lai theo định hướng của các GMVN, như thế là thiếu đạo lý đối với đồng bào Việt Nam và coi nhẹ đại nghĩa của dân tộc VN. HĐGM hành động như vậy, phải chăng vì tin rằng toàn thể các GM, LMVN cùng 7 triệu giáo dân VN là “nhân dân cả nước” đứng sau lưng mình?
Tuy nhiên, cho đến nay, như dòng Chúa cứu thế VN đang rao giảng đó là “ý nguyện của nhân dân: Đòn quyết định của Hội đồng Giám mục Việt Nam”, mà kết quả dường như cũng như cũng chỉ thu được chưa tới 15.000 chữ ký ủng hộ của người VN bất phân lương giáo trong nước lẫn hải ngoại, nghĩa là thua xa ông Nhạc sỹ Trúc Hồ ở hải ngoại ít người biết đến, đã vận động được 150.000 chữ ký trong một thời gian rất ngắn  cho Thỉnh nguyện thư gửi Tổng Thống Barack Obama đòi nhân quyền cho VN.
Vì thế, có giáo dân ở giáo phận Mỹ Tho đã gửi Thư ngỏ cho HĐGM đặt vấn đề rằng Các ngài Giám mục không thể đại diện toàn thể dân chúa Việt Nam để góp ý hiến pháp! Nhưng các Ngài đã làm như rằng cả giáo hội gần 7 triệu giáo dân cũng đồng quan điểm với các Ngài. Đây là quyền chính trị của mỗi cá nhân, cớ sao các Ngài lại lợi dụng chúng con để gây sức ép? Điều này con rất mong các Ngài trả lời cho chúng con rõ ??? Con cho rằng mỗi vị Giám mục cũng là một công dân thì cũng sẽ là một bản góp ý theo ý kiến cá nhân chứ không thể là HĐGM hay là các giám mục Công giáo Việt Nam, con cho đây là mạo danh của các Giám mục khác!”Như thế là HĐGM đã mạo danh toàn thể các GMVN và 7 triệu người CGVN áp đặt một lập trường chính trị cụ thể có tính cách đối kháng với Nhà nước VN ? Trong tình hình VN hiện nay, có nhiều nhóm chính trị cơ hội đan xen, dựa dẫm, lợi dụng lẫn nhau, tranh giành thời cơ, tung hỏa mù nhân danh nguyện vọng của nhân dân VN, gây cho quần chúng mất niềm tin, để đục nước béo cò. Có LM Bề Trên công khai cho rằng “Thư góp ý này không phải là sáng kiến của HĐGM, mà là “té nước theo mưa”, “theo đóm ăn tàn”, 90% nương theo và  dựa vào bản kiến nghị sửa Hiến pháp của Nhóm 72 trí thức, nhưng với những mục đích khác”!
Đây là một tuyên ngôn chính trị đảng phái, chứ không phải là hành động loan báo Tin Mừng, và không phải là “một lập trường đức tin trong xã hội; tiếng nói thay cho hàng triệu con tim tín đồ Công giáo Việt Nam trong và ngoài nước”, và rằng “đây là một biến cố mà Hội Đồng Giám mục Việt Nam chứng tỏ sự trưởng thành của mình trong năm Đức tin này”. LM Bề Trên Giám Tỉnh DCCT công khai tán tụng trên đài RFA, hàm ý rằng bây giờ HĐGMVN mới thực sự trưởng thành vì đã hành động trên “lập trường đức tin chính trị”, nhân danh năm đức tin, bất chấp huấn lệnh của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI rằng “không được chính trị hóa tôn giáo”. Và trong cuộc tiếp kiến ngoại giáo Đoàn bên cạnh Tòa Thánh khi mới đăng quang, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh rằng “bản chất của Giáo hội không phải là chính trị”.
Dĩ nhiên, đối với những người công dân VN việc phản biện, phê phán chính quyền một cách khách quan và có trách nhiệm về những sai trái trong mọi lĩnh vực để chính quyền cải thiện phục vụ nhân dân tốt hơn, là quyền lợi và bổn phận của mỗi công dân yêu nước, thậm chí có thể hành động đòi lật đổ chính quyền CSVN là quyền tự do của mỗi công dân VN, dù đó là công dân GM hay LM, như có GM, LM VN đã tỏ ra vui mừng khi nghe tin trung Quốc (TQ) sắp đánh VN, trong lòng hí hửng “mong cho chúng nó chết”, nhưng ngoài mặt lại lên tiếng chê bai “chính quyền VN hèn với giặc ác với dân”, kích động VN mau đánh trả bọn bành trướng TQ để….CSVN mau chóng sụp đổ như lòng Chúa mong ước!”…
HĐGM chỉ có quyền đại diện cho dân Chúa, chứ không có quyền đại diện cho công dân Việt Nam, để nhân danh toàn thể công dân VN trong GHVN áp đặt một giải pháp chính trị nhất thời mà mình cho là duy nhất đúng lên toàn thể dân tộc vạn đại, gồm toàn thể 90 triệu con người VN, trong đó có những người CSVN, một dân tộc đã phải đổ biết bao tài sản và xương máu để có được một nước Việt Nam ngày nay, dù chưa được hoàn thiện về mọi mặt, còn những bất bình đẳng, tham nhũng, bất công áp bức đầy oan trái, kể cả đối với một số công thần của chế độ cũ đã phải gánh chịu, bên cạnh những lấn át trắng trợn của quốc gia láng giềng phương bắc, chưa thể một sớm một chiều giải quyết được.
Tuy nhiên, trong khi GHCG trong nước thì ra thư góp ý bài xích chế độ CSVN vô thần đúng nội dung Thư chung năm 1951 và Thư Mùa chay 1960 của các GM miền Nam VN, thì CGVN hải ngoại khơi lại hận thù, ngày quốc hận v.v.. nhằm chống lại nguyện vọng của nhiều người VN hải ngoại khác muốn “khép lại quá khứ, nhìn về tương lai” cho dân tộc VN, là vận động Hoa Kỳ ra Nghị quyết công nhận ngày 30/4 là ngày Việt Nam”, để có thể xóa bỏ lằn ranh Quốc – Cộng nhằm hòa giải hòa hợp dân tộc VN. Chúng con không biết trong thâm tâm HĐGMVN sẽ hiệp thông với ngày nào trong hai ngày này, nhưng rõ ràng là với Thư góp ý sửa đổi hiến pháp HĐGMVN đã ban phép lành cho “ngày Quốc hận!”
Nhưng VN ngày nay với chủ trương là bạn với tất cả các nước đã được thế giới nể trọng, kể cả các kẻ thù sừng sỏ nhất cũng phải ca ngợi tinh thần hòa giải của dân tộc VN, và được Tòa Thánh tôn trọng. Các quan chức đại diện của hai chính phủ Hoa Kỳ, Việt Nam và đại diện một số tổ chức kiều bào VN tại Mỹ, không phải là người CG đã đến thắp hương tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa cũ, như một biểu tượng hòa giải tận cùng, cho dù một số người CGVN hải ngoại lên án là “nước mắt cá sấu”. Trong khi đó, trong GHCGVN vẫn còn nuôi dưỡng lòng thù hận lâu dài đối với những người cộng sản, như Lời Chúa rằng “sao hận thù dai dẳng không điểm dừng” (Ga 13.31), bởi vì đức tin chống Cộng của các chức sắc trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ CGVN dưới những mỹ từ “Sự thật, công lý, hòa bình và dân chủ”, công khai mạt sát anh em đồng đạo là Giám mục quốc doanh, LM quốc doanh và giáo dân là giáo dân gian.
Có GM, LMVN cho rằng hành động nêu trên của HĐGMVN “quả là dại dột”, đi ngược đường lối của Tòa Thánh trong thời gian trống tòa tại Vatican, gây mất niềm tin cho nhiều đồng bào VN lâu nay vốn đánh giá cao và tin vào thiện chí chí GHCG, gây hậu quả lâu dài cho người CGVN luôn yêu mến GH phải gánh chịu, còn các GM, LM dù ở dưới chế độ chính trị nào đi nữa tại VN “vẫn  làm cha thiên hạ”, nếu không muốn sống lưu vong tại nước ngoài hay tại Tòa Thánh.
Là những con dân của VN đang còn đại đa số người ngheo khổ, chúng con rất vui mừng khi Đức Thánh Cha đã mở đầu triều đại giáo hoàng của mình bằng thông điệp rõ ràng cho toàn thế giới rằng “Giáo Hội phải phục vụ người nghèo”
Và như Đức Thánh Cha đã biết rõ, nhiều người CG trên thế giới chưa hết bất ngờ về việc Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI từ nhiệm, thì chính Đức Thánh Cha đã mang lại một bất ngờ mới cho thế giới khi xuất hiện như một siêu sao của Giáo Hội phục vụ người ngèo, mở đầu cho một triều đại Giáo hoàng phục vụ người nghèo với quan điểm của Đức Thánh Cha rằng “nghèo đói là một sự vi phạm nhân quyền”. Và trong cuộc gặp gỡ với giới truyền thông ngày 16.3.2013, Đức Thánh Cha đã bày tỏ: “tôi mong muốn lắm thay một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo”. Về phần tổng thống Barack Obama đã thay mặt nhân dân Mỹ gửi những lời chúc mừng nồng nhiệt đến Đức Thánh Cha và nói rằng: “Như một nhà bênh vực tầng lớp dân nghèo khổ và bị ruồng rẫy, vị tân Giáo hoàng đã mang đến thông điệp của tình yêu và lòng từ bi, nguồn cảm hứng cho thế giới hơn 2.000 năm nay, khiến chúng ta nhìn thấy gương mặt của Chúa trong nhau”.
“Và Tổng Giám mục Justin Weibly, người đứng đầu Giáo hội Anh giáo, đã nói rằng Đức Giáo hoàng Francis là một mục tử nhân hậu và nổi tiếng và một người luôn dấn thân phục vụ, đấu tranh cho người nghèo ở Nam Mỹ. Với việc Ngài luôn đứng về phía người nghéo, dám lên tiếng bênh vực họ cũng như chỉ trích chính quyền độc đoán, những bất công trong xã hội, chắc chắn dưới triều đại Ngài, Giáo hội sẽ lên tiếng và dấn thân nhiều trong việc xây dựng một xã hội, thế giới bình đẳng, bác ái và huynh đệ hơn”.
Và chính Đức Thánh Cha đã liên tục đưa ra những thông điệp rõ ràng cho GHCG toàn cầu cần phải ưu tiên dấn thân phục vụ người nghèo, từ bỏ lối sống xa hoa, ham mê quyền lực, dục vọng đang làm ô nhiểm GHCG khắp nơi. Đúng như nhiều GM Á Châu đã nhận định rằng quyền lực và tiền bạc mới chính là mối nguy hiểm cho các GHCG tại Á Châu ngày nay.
Vì thế, thông điệp của Đức Thánh Cha chắc chắn sẽ khơi nguồn hy vọng mới cho 2/3 nhân loại nghèo khổ hôm nay, làm cho chúng con liên tưởng đến “Nghị quyết của Liên Hội Đồng GM Á Châu năm 1970 tại Manila, Phillipines, đã long trọng tuyên ngôn rằng GHCG cương quyết đứng về phía người nghèo, trở thành GH của người nghèo để phục vụ người nghèo và không thể nào chấp nhận GHCG như một ốc đảo giàu sang nổi lên giữa đại dương nghèo đói là lục địa Á Châu này”! Nhưng từ đó đến nay đã hơn 40 năm dường như nhiều GHCG tại Á Châu có chủ trương ngược lại là“GHCG cương quyết đứng về phía người quyền thế, và “Kinh doanh Thiên Chúa trên các tầng trời, và giàu sang dưới thế cho Giáo Hội chúng ta” để “làm phúc bố thí cho người nghèo hèn chúng nó”, như một Giám Mục đã nhận xét về tình trạng Giáo Hội VN hiện nay.
Nhìn lại GHCGVN chúng con, sau biến cố lịch sử lớn lao của VN vào năm 1975, nhiều GM, LM, tu sĩ nam nữ tại VN thời bấy giờ kỳ vọng rằng đây là một kinh nghiệm quý báu để thanh luyện GH, giúp GH sống tinh thần khó nghèo, dấn thân phục vụ người nghèo. Nhưng tiếc thay, từ khi VN thực hiện chính sách đổi mới vào năm 1986 đến nay, GHVN đã trở lại ốc đảo giàu sang hoành tráng hơn trước nhiều lần dưới con mắt những người nghèo khổ VN bất phân lương giáo. Đời sống của nhiều GM, LM ngày càng tiện nghi cao cấp hiện đại hơn, trong khi đại đa số giáo dân vẫn còn nghèo khổ, hay dưới mức nghèo khổ, mà các GM, LM cứ vô tư quyên góp bắt buộc để xây dựng các cơ sở của GH. Có GM xây dựng biệt thự gia trang, dinh thự sang trọng tại những khu đất đắt giá chuẩn bị để hưởng thụ khi Tòa Thánh cho nghỉ hưu. Nhiều GM, LM lây nhiễm bệnh thi đua xây cất nhà thờ, Tòa GM, nhà xứ, chủng viện nguy nga đồ sộ không chịu thua kém ai, mặc dù có những cơ sở cũ còn tốt, bất chấp đó là những nhà thờ cổ, hay các cơ sở mang dấu ấn truyền thống lịch sử truyền giáo của GHCGVN, đến nỗi có GM tiền nhiệm của giáo phận nọ đã gửi thư ngỏ, thống thiết van nài sẵn sàng quỳ lạy GM kế nhiệm đừng phá bỏ Tòa GM cũ xây dựng chưa bao lâu, để xây dựng Tòa Giám Mục mới!
Và trong thực tế, các chức vụ trong GHVN đã trở thành những quan chức quyền cao chức trọng với nhiều bổng lộc béo bở và vinh quang thế tục. Tại các lễ phong chức LM, bản thánh ca “Chúa đưa con lên hàng khanh tướng” đã được vang lên liên tục suốt buổi lễ. Nếu LM là những khanh tướng, tất nhiên GM phải là Vua nắm quyền sinh sát trong tay một giáo phận. Và nữ tu trong lễ khấn dòng cũng được vinh thăng suy tôn lên hàng “người yêu muôn thuở của Chúa Giêsu”, khiến cho có người ngoài CG hiểu lầm rằng Chúa Giêsu “nhiều vợ”, mà người CG chỉ được một vợ một chồng? Trong khi đó, tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, khi chủ tế lễ phong chức linh mục ngày 22.4.2013, Đức Thánh Cha đã huấn dụ rằng: “Các con là mục tử, chứ không phải công chức”!
Kính tâu Đức Thánh Cha,
Có GM, LM xác tín rằng Thư góp ý của HĐGMVN đã mở ra một “Mùa xuân cho GHVN thực sự đồng hành với dân tộc VN”? Nhưng mùa xuân nào với một thực tế là Giáo hội trong nước thì giương cao ngọn cờ “chống CSVN vô thần độc tài toàn trị”, kêu gọi “thắp nến cầu nguyện, đòi xóa bỏ Hiến páhp VN, để “nhân dân cả nước” thành lập một chế độ VN mới dưới cây gậy chỉ huy của HGGGM”, còn CGVN hải ngoại thì giương cao ngọn cờ Quốc hận hô hào “dâng thánh lễ hiệp thông, liên kết thánh chiến khiêu khích Trung Quốc, lật đổ chế độ quỉ đỏ CSVN vô thần”.
Người ta cho rằng đây không phải là mùa xuân mà là mùa đông thảm họa cho GHCG tại VN, quả thật là uổng phí dòng máu các Thánh Tử Đạo VN đã đổ ra tưởng rằng sinh sôi được những người có đạo đức tốt lành, trái lại đã sản sinh những người mang danh Công giáo, nhưng hành động ngược với bản chất của đức tin CG, làm ô danh đạo Chúa trong lòng dân tộc VN cho đến muôn đời sau.
Tuy nhiên, tình trạng nêu trên của GHCGVN phần nào đang đi vào vết xe đổ, mà Đức Hồng Y giáo chủ Carlo Maria Martini thuộc dòng Tên trước khi qua đời đã trối lại rằng: “Nền văn hóa Giáo hội của chúng ta đã trở nên già cỗi. Các nhà thờ của chúng ta thì trở nên trống vắng và tệ quan liêu trong hàng giáo sỹ ngày càng gia tăng. Các nghi lễ của chúng ta và sắc phục chúng ta mặc thì phô trương”“Giáo hội phải nhận những lỗi lầm của mình và bắt đầu tiến hành những thay đổi căn bản… Những vụ xì-căng-đan ấu dâm bắt chúng ta phải lên đường chuyển hóa”. “Giáo hội đã lỗi thời 200 năm. Tại sao chúng ta không tự thức tỉnh? Chúng ta sợ chăng?”
Đối với GHVN, nhiều GM, LM tu sĩ nam nữ cũng như giáo dân tin rằng trong tình trạng quan liêu đồng hóa đức tin với chính trị, GHVN đã lỗi thời ít nhất là đến những năm 1951, 1960 của thế kỷ 20 trước đây, GHVN bị mất niềm tin, và trở nên ô nhiễm “phô trương thói đời đối kháng”, sa đọa, xa rời đức tin trong sáng, làm cho GHVN mất khả năng phục vụ người nghèo một cách đích thực!
Vì thế, những lời tâu trình mộc mạc thẳng thắn nêu trên của anh em chúng con, được xuất phát từ đáy lòng thiết tha yêu mến Hội Thánh Chúa của những người con VN nhỏ bé của Đức Thánh Cha, và nếu có điều gì mạo phạm, chúng con xin được Đức Thánh Cha ban ơn đại xá cho chúng con. Chúng con kính xin hết lòng tri ân Đức Thánh Cha.
Vì trong tâm tình những người con hiếu thảo của Đúc Thánh Cha, người Cha chung của mọi người và của “Giáo Hội vì người nghèo, phục vụ người nghèo”, chúng con khẩn cầu Đức Thánh Cha đoái thương giúp đỡ GHVN thoát khỏi tình trạng lẫn lộn giữa đức tin và chính trị, cũng như tình trạng sa đọa trong đời sống như nên trên, để GHVN chúng con có thể trình bày và làm chứng cho khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô giữa lòng dân tộc VN, ngõ hầu cho GHVN thoát khỏi “vòng luẩn quẫn đứng trên, đứng ngoài, đứng bên lề, đứng bên dòng lịch sử dân tộc VN bởi tội tổ tông vọng ngoại và đức tin căm thù cộng sản”, cho đất nước VN đang còn nghèo được phát triển giàu mạnh sánh vai cùng các nước trên thế giới, và dân tộc này được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước.
Một lần nữa, chúng con xin được chúc tụng và ngợi khen Đức Thánh Cha rằng “Đẹp thay bước chân Người đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó!”. Và chúng con xin hết lòng cám ơn Đức Thánh Cha trước về sự quan tâm của Đức Thánh Cha đến bức thư khiêm hạ này của chúng con, cùng kinh xin Đức Thánh Cha cầu nguyện và ban phép lành Tòa Thánh cho anh em chúng con.
Rất trân trọng kính tâu,

PHÊRÔ HỒ MINH ĐIỆP
91/8B Hòa Hưng, P12 Q10 Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Điện thoại: (84) 0903600964
Email: hopetẻ21@yahoo.com

2013/05/08

BBC cùng ông JB Nguyễn Hữu Vinh vu khống một giáo dân

BBT – Theo thông lệ quốc tế, quyền lựa chọn sử dụng hay không sử dụng tin, bài của bạn đọc thuộc về Ban Biên tập tờ báo. Do vậy, khi BBC chọn đăng bài “Sự cùng quẫn nhìn từ báo nhân dân” của tác giả JB Nguyễn Hữu Vinh với một mớ từ ngữ mạ lị báo Nhân dân, đồng thời bịa đặt, vu khống một giáo dân cho thấy sự hằn học, đớn hèn và đầy rẫy âm mưu của một tờ báo mang tiếng “trung lập”.

Ông JB Nguyễn Hữu Vinh thường xuyên gây sự với Công an như thế này nhưng lại thường lu loa "Công an đàn áp giáo dân"
Ông JB Nguyễn Hữu Vinh thường xuyên gây sự với Công an như thế này nhưng lại thường lu loa "Công an đàn áp giáo dân"

Một sự vu khống, xuyên tạc trắng trợn? 

Ngày 2-4-2013, web sachhiem.net – trang điện tử do một số tác giả người Việt hiện đang sinh sống ở nước ngoài thực hiện, đăng bài Góp ý của giáo dân về Bản nhận định và góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Hội đồng Giám mục Việt Nam – các Giám mục Công giáo Việt Nam của tác giả Nguyễn Trọng Nghĩa – công dân theo Thiên chúa giáo, hiện đang sinh sống tại TP Cao Lãnh – Ðồng Tháp. Ðược sự đồng ý của tác giả, trong số báo ra ngày 19-4, Báo Nhân Dân đã trích đăng một phần từ bài viết nói trên với nhan đề Nhiều điều chưa sáng trong một bản góp ý…
Sau khi trích từ bài viết của Nguyễn Trọng Nghĩa đăng trên Báo Nhân Dân, ngày 21-4 trên blog của một người tên là JB Nguyễn Hữu Vinh đã có bài phê phán, đồng thời bài này được thu gọn để gửi đăng trên mục Diễn đàn của BBC tiếng Việt ngày 21-4. Sau đó, một số địa chỉ trên interrnet đăng lại hai bài này kèm theo bình luận có tính chất thóa mạ, xúc phạm, thậm chí đe dọa Nguyễn Trọng Nghĩa và gia đình… Về bài viết của JB Nguyễn Hữu Vinh, một số tác giả là blogger đã lên tiếng đánh giá, trong đó cho rằng:
- “Tuy nhiên đọc xong bài viết thì tôi cũng hiểu phần nào lý do: thứ nhất, bài viết đúng là thể hiện tư duy của một “con cừu” cho nên các nhà báo có lẽ chẳng thèm phản biện mà xem đó như câu chuyện hài làm quà mỗi dịp trà dư tửu hậu; thứ hai, “bà buôn cải” (BBC) đăng bài bôi xấu báo khác nhưng thòng cái câu “Bài viết thể hiện quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả” để phủi trách nhiệm… Mọi người, dù là giáo dân Ki-tô giáo, Hồi giáo, Phật giáo,… nếu đang sống trên đất nước này, là người Việt Nam thì trước hết họ là những công dân của đất nước. Là công dân thì họ phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật (có lẽ trừ những giáo dân như JB là tự cho mình cái quyền làm trái điều hiển nhiên đó). Vậy thì khi Nhà nước cần triển khai chính sách, thực thi một công vụ nào đó có liên quan một tôn giáo, các vị chức sắc tôn giáo đứng ra làm cầu nối giữa chính quyền và giáo dân là cực kỳ hợp lý và hiệu quả. Có lẽ những giáo dân như JB cho rằng Nhà nước phải dùng xe tăng và lưỡi lê như Ngô Ðình Diệm xưa kia đàn áp Phật giáo thì mới là “chiêu sạch”?… Nói tóm lại, đọc qua bài viết của con chiên JB Vinh “văng miểng”, tôi chỉ thấy ở đó có sự cùng quẫn về lý lẽ, hiểu biết, tâm thức của một kẻ mắt không nhìn quá ngọn roi, tai không nghe quá được các mệnh lệnh chăn dắt của chủ chăn nhưng lại ôm mộng tưởng chống lại cả thế giới bên ngoài cái chuồng của mình” (Nguyễn Thanh Tùng).
- “Ai dè đó lại là một bài viết hằn học, đuối lý, chỉ biết lấy sự thóa mạ, hàm hồ làm phương tiện để chửi bới cho hả dạ. Thế là đã rõ, mục đích của Vinh và những kẻ như Vinh không phải nhằm để phản biện mà là công kích, bôi nhọ và lừa bịp ngay chính cả tín đồ của mình… Xin hỏi cậu, có phải phản biện xã hội có mục đích cao cả là tìm đến một chân lý chung có lợi cho mọi giai tầng, mọi nhóm lợi ích trong xã hội. Có phải phản biện xã hội là phải đưa ra các lập luận, chứng cứ, phân tích, đánh giá về một vấn đề nào đó nhằm thuyết phục người khác đồng tình với mình, chứ không phải là chửi bới, mạt sát người khác khi người ta không đồng tình với mình. Nếu đồng ý như vậy thì cậu đã kém cỏi lắm so với một giáo dân bình thường mà cậu cho là “man mát, không bình thường về thần kinh” như Nguyễn Trọng Nghĩa rồi đấy. Tôi đọc bài viết của Trọng Nghĩa thấy ở trong đó có đủ luận điểm, luận chứng, luận cứ rất chặt chẽ và thuyết phục về những vấn đề thuộc quan điểm mà Hội đồng Giám mục đã đưa ra. Trong lúc đó, theo như cậu nói, Nghĩa mới học hết phổ thông trung học, “dốt nát và ngu xuẩn”. Ðọc cả bài của cậu chỉ thấy búa xua những từ chửi bới, thóa mạ Nghĩa và cả Báo Nhân Dân, chẳng thấy cậu đưa ra được lý lẽ, bằng chứng gì để phản bác cả. Vậy là cậu còn thấp trình hơn cả Nghĩa rồi” (molang0205).
- “Chuyện nhỏ có chút xíu, một giáo dân “góp ý” với Hội đồng Giám mục một cách trân trọng và lễ độ. Nhưng, chuyện đã trở thành không nhỏ… Giáo dân này vừa góp ý thì bị ông JB Nguyễn Hữu Vinh săn lùng, điều tra như một tội phạm, phơi bày hết các chi tiết cá nhân, hạch hỏi gia đình, vợ con, cha mẹ, ông nội, bà nội, của người ta ra tố… Từ đầu đến cuối bài của ông JB, chỉ thấy kết tội giáo dân Nghĩa vì “dám góp ý”, ngoài ra không có lấy một chữ cho biết ông Nghĩa bậy ở chỗ nào… Thật ra bài của giáo dân Nguyễn Trọng Nghĩa viết không hề “tâm thần” mà rất thông thái. Nhưng, cho dù, người ta có “tâm thần” đi nữa, thì lòng nhân đạo của giáo hội các người ở đâu, lại đi hiếp đáp một kẻ “có bệnh”?”. (Lời Tòa soạn sachhiem.net trước khi đăng bài Cùng quẫn lý lẽ của một con cừu)…
Qua các trích dẫn trên đây, có thể nhận diện bản chất bài viết của JB Nguyễn Hữu Vinh, vì thế trao đổi lại là việc làm không cần thiết. Tuy nhiên, sau khi JB Nguyễn Hữu Vinh công bố bài viết, qua thư điện tử và điện thoại, Báo Nhân Dân đã nhận được ý kiến của tác giả Nguyễn Trọng Nghĩa bày tỏ sự phẫn nộ về việc ông này đưa ra thông tin vu khống, bịa đặt đối với anh. Cụ thể, JB Nguyễn Hữu Vinh viết: “một số giáo dân Giáo xứ Cao Lãnh do linh mục Marcel Trần Văn Tốt, chánh xứ, Linh mục Phêrô Trần Trung Chỉnh làm phó xứ, cho chúng tôi biết như sau: Ông Nguyễn Trọng Nghĩa tại địa chỉ này năm nay 32 tuổi, có một vợ và một con. Ông mới học xong phổ thông trung học thì làm Phó Bí thư Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của xã Mỹ Trà. Ðược một thời gian, do vi phạm khuyết điểm, nên ông buộc phải ra khỏi chức vụ đó. Ông được cho là đã “bỏ đạo” hơn chục năm nay, hoàn toàn không liên hệ với nhà thờ, với giáo xứ và các việc thuộc Giáo hội Công giáo. Người dân địa phương cho biết, ông có hiện tượng đầu óc bị “man mát”, hay không bình thường về thần kinh, sức khỏe tâm thần. Gặp gỡ linh mục Chánh xứ, ông nội của ông Nghĩa đã than phiền về sự mâu thuẫn giữa ông Nghĩa với ông nội và cha mẹ ruột, người ông nội cũng cho hay đã không gặp gỡ và tỏ ra lo lắng cho ông Nghĩa về mặt nhân cách và đạo đức”.

Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, vì không đồng tình với Bản nhận định và góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Nguyễn Trọng Nghĩa đã chủ động viết bài. Tác giả đã gửi bài góp ý tới Hội đồng Giám mục Việt Nam và nhiều  vị giám mục, linh mục khác. Sau một thời gian không nhận được hồi âm, Nguyễn Trọng Nghĩa mới gửi bài tới sachhiem.net. Trong thư gửi Báo Nhân Dân ngày 1.5, Nguyễn Trọng Nghĩa cho biết: “Tôi sinh năm 1983 tại Cao Lãnh – Ðồng Tháp. Trong thời gian từ năm 1998 đến năm 2003, tôi là thành viên Ðội Công tác xã hội thị xã Cao Lãnh, đồng thời là Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên, Ủy viên Ban Chấp hành Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh phường 1. Tháng 3-2003, tôi là viên chức văn hóa – thể thao của UBND xã Mỹ Trà, và vẫn là thành viên Ðội Công tác xã hội thị xã Cao Lãnh, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên và Ủy viên Ban Chấp hành Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh phường 1. Từ năm 2003 đến năm 2005 tôi là Phó Bí thư Ðoàn TNCS xã Mỹ Trà và phường Mỹ Phú (tách xã, phường tháng 5-2005). Năm 2005, tôi trúng cử vào HÐND phường Mỹ Phú và được phân công là Thư ký HÐND phường. Năm 2008, tôi làm việc tại UBND xã Phương Trà – Cao Lãnh, với chức danh là cán bộ Văn phòng Ủy ban phụ trách Giao thông thủy lợi. Sau vì gia đình khó khăn, cho nên tôi xin nghỉ công tác. Trong cuộc sống, một vài lần tôi và ông nội có bất đồng quan điểm khi trao đổi về Kinh thánh, nhưng chưa bao giờ dẫn tới “mâu thuẫn gia đình”. Ông nội và cha tôi chưa bao giờ cung cấp thông tin về đạo đức của tôi cho nhà thờ. Hiện tại ông nội tôi rất buồn khi cháu mình bị người ta coi là người tâm thần và bịa đặt là do ông nội tôi nói. Ông nội và cha tôi là người đóng góp nhiều công sức tham gia xây dựng nhà thờ Giáo xứ, nay lại bị xuyên tạc cho nên rất xấu hổ với mọi người chung quanh. Riêng việc tôi có “bỏ đạo” hay không, thì có thể làm rõ qua việc tôi làm “lễ rửa tội” cho con mình tại nhà thờ. Qua đây, tôi khẳng định tôi là một người  bình thường, không có dấu hiệu “đầu óc bị “man mát”, hay không bình thường về thần kinh, sức khỏe tâm thần” như JB Nguyễn Hữu Vinh viết. Tôi cũng chưa bao giờ vi phạm kỷ luật để cơ quan, tổ chức buộc phải thôi chức vụ. Ai quan tâm đến tôi, đều có thể xác minh”.
Giáo dân Giáo xứ Cao Lãnh luôn sống tốt đời đẹp đạo
Giáo dân Giáo xứ Cao Lãnh luôn sống tốt đời đẹp đạo

Như vậy, có thể khẳng định thông tin được cho là “một số giáo dân Giáo xứ Cao Lãnh”cung cấp cho JB Nguyễn Hữu Vinh, liên quan đến con người, hoạt động xã hội của Nguyễn Trọng Nghĩa là thông tin bịa đặt, vu khống. Phải chăng khi công bố bài viết JB Nguyễn Hữu Vinh đã bịa đặt nhằm mục đích hạ thấp uy tín của Nguyễn Trọng Nghĩa, tác động tiêu cực tới ý kiến của anh với Bản nhận định và góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Hội đồng Giám mục Việt Nam? Ðó là việc làm thiếu lương thiện, cần phê phán một cách nghiêm khắc.