Lịch sử nhuốm máu của Hoa Kỳ và những điều không dễ nói
Tại
nước Mỹ nếu các bạn hỏi một người Việt, hay thậm chí là một người Mỹ
rằng tại sao nước Mỹ to lớn như bây giờ, quá trình bành trướng lãnh thổ
của Mỹ diễn ra như thế nào, ngoài Chiến tranh Việt Nam và các cuộc chiến
gần đây thì Mỹ còn đem quân đánh những nơi nào v.v., thì các bạn sẽ
thấy rằng họ không biết câu trả lời. Điều đó có lẽ từ sự tránh né nói về
đề tài này trong giáo dục phổ thông và trên báo chí chính thống. Rất
may, các trang thông tin trên Internet và các tác phẩm nghiên cứu chuyên
sâu đã trình bày, liệt kê, miêu tả những sự kiện quan trọng, những giai
đoạn trong suốt quá trình bành trướng khu vực và quốc tế, mở rộng cương
thổ của Hoa Kỳ. Bài viết này tổng hợp lại các thông tin, sự kiện để
phần nào giải đáp câu hỏi: Tại sao nước Mỹ rộng lớn như hiện nay.
Năm
1775, tướng George Washington, vốn là một viên tướng tư lệnh người
thuộc địa gốc Anh, đã từng chỉ huy trung đoàn dân quân địa phương trang
bị nhẹ ở thuộc địa Virginia đánh bại nhiều bộ tộc châu Mỹ bản xứ và thực
dân Pháp, cùng các chiến hữu thành lập lực lượng nổi dậy "Lục quân Lục
địa", lãnh đạo quân nổi dậy của 13 thuộc địa tạo phản chống thực dân
Anh. Sau tám năm chiến tranh, thực dân Anh thua, phải ký hiệp định Paris
1783 rút quân ra khỏi 13 thuộc địa. George Washington và các chiến hữu
tuyên bố 13 thuộc địa độc lập, ly khai nước Anh, và thành lập liên bang
Hoa Kỳ.
13
thuộc địa của Anh sau này trở thành 13 bang đầu tiên của Hoa KỳTừ đó,
mười ba thuộc địa trở thành mười ba tiểu bang nằm trong liên bang Mỹ. Từ
13 tiểu bang nguyên thủy, Mỹ đã bành trướng lãnh thổ lên thành một nước
rộng lớn với 50 bang với nhiều lãnh thổ phụ thuộc, bao gồm vùng quốc
hải (Insular area), Puerto Rico, Samoa, Guam, 2 quần đảo và 9 hòn đảo.
Từ
một quốc gia có diện tích khiêm tốn, Hoa Kỳ đã trở thành to lớn như
hiện nayChính sách bành trướng toàn cầu và chủ nghĩa đế quốc của Mỹ đã
làm sản sinh ra những khái niệm và thuật ngữ mới trong giới khoa học
chính trị quốc tế như "đế quốc Mỹ", "tiểu bang thứ 51", "vận mệnh hiển
nhiên"....
Thuật
ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên
quan tới hoàng đế Napoleon của Pháp, và cũng được dùng khi nói về chính
sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong
thế kỷ 19 và đầu tiên được sử dụng một cách phổ biến để nói về Hoa Kỳ
bởi Liên minh Hoa Kỳ chống Đế quốc, được thành lập năm 1898 để chống
chiến tranh Tây Ban Nha - Hoa Kỳ và sự chiếm đóng quân sự cùng những tội
ác chiến tranh gây ra bởi quân đội Mỹ ở Philippines sau đó.
Trong
chiến tranh xâm lược Philippines, tướng Mỹ Jacob Smith hạ lệnh "Giết
tất cả người nào trên 10 tuổi". Câu ở dưới bức tranh (1902) là: "Họ là
tội phạm chỉ vì họ sinh ra 10 năm trước khi chúng ta lấy Philippines".
Jacob Smith là một kẻ bị dư luận gọi là một hung thần, hắn gây rất nhiều
tội ác trong các cuộc chiến ở Mỹ và Philippines và còn thường xuyên
"khoe khoang" về những "thành tích" đó. Sau đó, trước áp lực dư luận thế
giới, Mỹ đành phải đưa Smith ra tòa án quân sự, nhưng hắn không bị 1
ngày ngồi tù nào mà chỉ bị đề nghị, thuyết phục để tự nghỉ hưu trong
danh dự.Tư tưởng bành trướng quốc tế của Mỹ được thể hiện rõ qua khái
niệm "Vận mệnh hiển nhiên". "Vận mệnh hiển nhiên" là một niềm tin của
người Mỹ rằng họ có "vận mệnh" mở rộng lãnh thổ từ duyên hải Đại Tây
Dương đến Thái Bình Dương. Khái niệm này cũng được sử dụng để hô hào và
biện hộ cho việc thu phục các lãnh thổ khác.
Những
người theo tư tưởng này tin rằng mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ không chỉ tốt
đẹp mà còn là "hiển nhiên" và là "vận mệnh". Ban đầu, "Vận mệnh hiển
nhiên" là một từ có tính cách thời thế chính trị trong thế kỷ 19 nhưng
dần dần nó trở thành thuật ngữ chuẩn lịch sử, thường được dùng như đồng
nghĩa với việc mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ khắp Bắc Mỹ.
Thuật
ngữ này không được những nhà làm chính sách của Hoa Kỳ sử dụng trong
đầu thế kỷ 20 nhưng một số nhà bình luận tin rằng một số khía cạnh của
niềm tin "Vận mệnh hiển nhiên", đặc biệt là tư tưởng, niềm tin, chủ
nghĩa đại bá quyền về một "nhiệm vụ" của người Mỹ là bành trướng thế
lực, mở rộng tầm ảnh hưởng ra khắp thế giới dưới chiêu bài chính trị
"khai hóa dân chủ", "khai hóa văn minh".
Tác
phẩm nổi tiếng năm 1872 của họa sĩ John Gast, có tên "American
Progress" (Quá trình tiến tới của Hoa Kỳ), là một sự miêu tả mang tính
biểu tượng về tư tưởng "Vận mệnh hiển nhiên". Trong hình là nàng
Columbia, một hình tượng được nhân cách hóa như là nước Hoa Kỳ, đi phía
Tây cùng với những người định cư Mỹ vì sự nghiệp "khai hóa". Người thổ
dân cùng thú hoang bỏ chạy.Tư tưởng nước lớn của Mỹ cũng được thể hiện
qua khái niệm "Tiểu bang thứ 51", đó là một thuật ngữ để chỉ những vùng
được nghiêm túc hoặc mỉa mai cho rằng có thể trở thành một vùng đất mới
của Hoa Kỳ, cộng thêm vào 50 tiểu bang sẵn có của họ. Trước năm 1959,
khi Hawaii và Alaska chưa sát nhập vào liên bang Hoa Kỳ thì thuật ngữ
tiểu bang thứ 49 đã được dùng. Gần đây nhất, Puerto Rico có khả năng
thành tiểu bang thứ 51.
Cụm
từ "tiểu bang thứ 51" cũng được dùng để nói về các quốc gia chư hầu,
nhà nước vệ tinh, hoặc thuộc địa kiểu mới, đã hoặc đang nằm dưới sự ảnh
hưởng hoặc điều khiển từ chính phủ Hoa Kỳ. Trong nhiều nước trên thế
giới, nhiều người thấy rằng văn hóa, truyền thống dân tộc của họ đã bị
Mỹ hóa quá nhiều, các nhóm này cũng thường sử dụng thuật ngữ "tiểu bang
thứ 51" như là một cái nhìn nghiêm khắc về nước họ.
Các sự kiện tiêu biểu trong quá trình mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ
Kaintwakon (biệt danh: Người trồng ngô), thủ lĩnh của người SenecaCuộc trường kỳ kháng chiến bi tráng của thổ dân Mỹ
Lâu
nay mỗi khi nhắc đến thổ dân bản xứ châu Mỹ thì nhiều người trong chúng
ta, do ảnh hưởng từ hệ thống tuyên truyền, giáo dục, phim ảnh thời
Pháp, thời Mỹ, nên đầu óc hiện lên ngay hình ảnh của những kẻ ăn lông ở
lỗ, rồi gom chung lại gọi họ là "mọi da đỏ". Sự thật có phải vậy không?
Sự
thật là châu Mỹ nói chung và Bắc Mỹ, Hoa Kỳ nói riêng, trước khi thực
dân phương Tây đến thôn tính, đã tồn tại hàng trăm dân tộc với các văn
hóa và ngôn ngữ khác nhau vô cùng đa dạng và phong phú. Người phương Tây
cho rằng mình văn minh hơn nên ban đầu họ không cần biết ai là ai, họ
khái quát hóa lại hết và gom hết vào gọi chung là Indian (vì nhà thám
hiểm Christopher Columbus ban đầu nhầm lẫn đây là Ấn Độ), và khi thấy
một vài chủng tộc có da nâu đậm hoặc một số bộ lạc có phong tục nhuộm
mặt đỏ hoặc có những hình vẽ màu đỏ trên mặt để kích thích ý chí chiến
đấu, thì họ gọi đó là Redskin hoặc Red Indians, và từ đó danh từ mang
tính lăng mạ "mọi da đỏ" được sử dụng phổ biến.
Khi
xem hình vẽ, các phim ảnh Hollywood, các truyện tranh của Mỹ, bao gồm
cả các hình vẽ minh họa trong sách giáo khoa cấp phổ thông, thì người ta
luôn thấy các hình ảnh thổ dân ăn mặc gần như là khỏa thân, chỉ đóng
mỗi cái khố, ăn lông ở lỗ, như các dân tộc thiểu số hay con người trong
thời thượng cổ, bán khai.
Thật
ra nếu các bạn đến các tiểu bang phía Bắc nước Mỹ thì các bạn sẽ thấy
lạnh căm, đông đá, tuyết phủ. Không cần là các bang phía Bắc, kể cả các
bang phía Nam như Texas, Arizona, New Mexico, Florida khi mùa đông đến
thì thời tiết khí hậu rất lạnh. Như vậy thì làm sao có thể ăn mặc ít vải
gần như khỏa thân, để mình trần đóng mỗi một cái khố như trong sách và
phim điện ảnh mô tả mà có thể chịu rét nổi.
Thayendanegea,
thủ lĩnh của người MohawkĐúng là có một ít tộc người, bộ lạc ở Nam Mỹ
gần xích đạo, hoặc những ngư dân sống gần biển, dân đảo, là ăn mặc thiếu
vải, bởi vì họ không có nhu cầu đó, và họ sinh hoạt chủ yếu dưới nước
không cần nhiều y phục. Hoặc có khi đơn giản là một số người thích cởi
trần cho mát khi sinh hoạt thường nhật, như bao nhiêu người trên thế
giới ngày nay.
Hiện
tượng "khái quát hóa", "mọi rợ hóa", "man di hóa" các sắc tộc, sắc dân
khác của Mỹ và phương Tây cũng tương tự như người Hán ở Trung Quốc thời
phong kiến từng gom chung lại gọi bốn phương quanh họ là "Đông di, Tây
nhung, Nam man, Bắc địch".
Các
chính phủ và hệ thống giáo dục nhà nước của Mỹ và phương Tây lâu nay
luôn lẩn tránh hoặc viết lại lịch sử một cách xuyên tạc, bóp méo để chạy
tội xâm lược, bành trướng, và các tội ác diệt chủng, thảm sát quy mô
lớn mà các cha anh của họ đã gây ra ở châu Mỹ.
Theo
ước tính của nhóm nghiên cứu đạo đức học (ethic studies) của trường đại
học Colorado, thì thổ dân Bắc Mỹ có khoảng 15 triệu người khi người Tây
phương bắt đầu xâm lược, chỉ còn lại chưa đầy 250 ngàn vào năm 1890.
Ban đầu họ không hề là các dân tộc thiểu số, mà họ chính là những dân
tộc đa số, chỉ sau khi bị quân xâm lược tiến hành những cuộc chiến tranh
diệt chủng, diệt tộc, hoặc đô hộ, đồng hóa, thì họ mới bị trở thành
thiểu số.
Giáo
sư đại học Hawaii, sử gia David Stannard, trong sách "American
Holocaust: The Conquest of the New World" (Cuộc diệt chủng Holocaust của
Mỹ: Cuộc chinh phục Tân thế giới), do NXB đại học Oxford (Anh) xuất
bản, đã cho biết: "Trong vòng bốn thế kỷ - từ thập kỷ 1490 đến 1890 -
người châu Âu và người Mỹ trắng đã tham gia một chuỗi liên tục các chiến
dịch diệt chủng chống nhân dân châu Mỹ bản xứ. Đó là hành động diệt
chủng có quy mô lớn nhất trong lịch sử thế giới."
Trong
loạt phim tài liệu "500 Nations" (500 dân tộc), nói về các nền văn
minh, nhà nước, đế chế, vương quốc, dân tộc, bộ tộc, bộ lạc ở Bắc Mỹ,
Trung Mỹ, và cuộc kháng chiến kiên cường bi tráng của họ trước quân xâm
lược thực dân châu Âu, nhà sản xuất kiêm đạo diễn Kevin Costner đã giới
thiệu:
"Từ
rất lâu trước khi những người châu Âu đầu tiên đến đây, đã có chừng 500
dân tộc đã ở Bắc Mỹ. Họ bao trùm châu lục từ bờ biển đến bờ biển, từ
Trung Mỹ đến Bắc Băng Dương. Có hàng chục triệu người ở đây, nói hơn 300
ngôn ngữ. Nhiều dân tộc trong số đó sinh sống trong các thành phố đẹp,
thuộc loại các đô thị lớn và tân kỳ nhất trên thế giới. Phim tài liệu
500 Dân tộc nhìn lại các nền văn hóa cổ đó, họ sống ra sao, và bao nhiêu
trong số họ còn sống sót.... Những gì các bạn sẽ nhìn thấy trong phim
chính là những gì đã xảy ra. Những gì trong phim chỉ là một phần, không
phải là tất cả những gì đã xảy ra, và không phải đoạn phim nào cũng dễ
xem. Chúng ta không thể thay đổi nó. Chúng ta không thể vặn lại kim đồng
hồ. Nhưng chúng ta có thể mở mắt ra và cho các dân tộc đầu tiên trên
mảnh đất này sự công nhận và tôn trọng họ đáng phải được: Vị trí chính
đáng của họ trong lịch sử thế giới."Trong số khoảng 500 dân tộc đó có
nhiều bộ tộc, thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc. Và còn có những dân
tộc với nền văn minh, văn hóa phát triển cao với các thể chế chính trị
đã phát triển cao, bao gồm các đế quốc, vương triều, nhà nước, chính
quyền, quân đội có tổ chức, hệ thống hành chính, và các quan hệ vua tôi,
thần dân, họ thu thuế và sử dụng một số loại tiền riêng làm bằng đồng
(Axe-monies).
Đại Liên minh phía Tây, nền văn minh Maya, Aztec, và Inca
Tại
châu Mỹ trong các thời kỳ khác nhau, những lực lượng lớn mạnh nhất có
thể kể đến: Tại Bắc Mỹ có liên minh chính trị quân sự "Đại Liên minh
phía Tây" (Western Confederacy, phần lớn thuộc nước Mỹ và Canada ngày
nay), một liên minh rộng lớn bao gồm nhiều liên minh nhỏ hơn, nhưng khá
lỏng lẻo. Đại liên minh này bao gồm Liên minh Iroquois (lớn nhất trong
đại liên minh), liên minh Hội đồng Tam Hỏa, liên minh 7 nước Canada (7
dân tộc bản địa ở khu vực phía Nam Canada ngày nay), Liên minh Wabash
(gồm các tộc Wea, Piankashaw và nhiều nhóm khác), liên minh Illini, và
10 lực lượng lớn khác.
Kim
tự tháp của nền văn minh Maya, một trong những kỳ quan thế giới.Tại
Trung Mỹ có nền văn minh, đế chế Maya và Aztec (phần lớn thuộc Mexico
ngày nay). Và tại Nam Mỹ có nền văn minh, đế chế Inca (phần lớn thuộc
Peru ngày nay).
Đại
Liên minh phía Tây đã bị quân đội liên bang Mỹ tiêu diệt sau trận
Fallen Timbers năm 1794. Một năm sau (1795) chính thức kết thúc cuộc đấu
tranh chống thực dân Mỹ ở khu vực phía Bắc. Liên minh chính thức tan rã
sau hơn 10 năm thành lập để kháng chiến chống sự xâm nhập của đế quốc
Mỹ lên phía Bắc.
Nền
văn minh, đế chế Maya đến thế kỷ 9 thì suy tàn, quyền lực trung ương bị
tan rã và chia làm nhiều phe phái, quyền lực, thế lực khác nhau. Đến
năm 1511, thực dân Tây Ban Nha bắt đầu mở cuộc chinh phạt các thế lực
còn lại của người Maya, bắt đầu bằng chiến dịch chinh phạt vùng Yucatán,
sau đó là vùng Guatemala và Petén.
Không
giống như hai đế chế Aztec và Inca, khi thực dân Tây Ban Nha chỉ cần
hành quyết vua và các lãnh tụ kháng chiến là xong, các thế hệ người Maya
dù các lãnh tụ của họ bị hành hình thì họ vẫn nối tiếp nhau liên tục
đứng lên kháng chiến đuổi quân ngoại xâm. Sự chống cự dữ dội và thường
xuyên của người Maya làm cho thực dân Tây Ban Nha tốn 186 năm mới hoàn
thành bình định. Itza, vương quốc cuối cùng của dân tộc Maya chịu thất
bại trước Tây Ban Nha vào năm 1697.
Đế
chế Aztec hay còn gọi là liên minh chân vạc Aztec (Aztec Tripple
Alliance - gồm 3 khu vực lớn Tenochtitlan, Texcoco, Tlacopan) là một nền
văn minh rực rỡ ở Trung Mỹ. Năm 1519, tướng Hernán Cortés của đế quốc
Tây Ban Nha đem 8 vạn quân Tây Ban Nha và hơn 20 vạn ngụy quân bản xứ
khai hỏa chiến tranh xâm lược.
Sau
2 năm chiến tranh, Cortés san bằng kinh đô Tenochtitlan (thành phố lớn
nhất đế chế Aztec và một trong những thành phố thịnh vượng và lớn nhất
thế giới thời đó), đế chế Aztec bị tiêu diệt, các hoàng đế Aztec bị hành
quyết, Aztec trở thành thuộc địa của thực dân Tây Ban Nha.
Đế
chế Inca cũng là một nước lớn, một đế chế cực thịnh, giàu mạnh và là
một nền văn minh lớn ở Nam Mỹ. Năm 1526, những người Tây Ban Nha đầu
tiên đến đây. Sau một thời gian thăm dò, họ cố ý đem những người bệnh
đậu mùa đến sống lẫn lộn với người dân bản địa. Bệnh đậu mùa lúc đó vốn
không xa lạ gì với người châu Âu, cơ thể họ đã quen thuộc và có kháng
sinh, họ còn có bác sĩ và thuốc trị. Nhưng người Inca thì không có những
thứ đó vì đó là một căn bệnh mới lạ với họ. Thế là một cơn đại dịch
bùng nổ và truyền nhiễm lây lan, làm hàng vạn người bệnh chết. Quốc
vương Huayna Capac của Inca cũng bị nhiễm bệnh.
Năm
1528, quốc vương Huayna Capac của Inca không chống nổi nên qua đời. Do
chết vì căn bệnh quái ác nên không có chuẩn bị hậu sự, thế là cuộc nội
chiến Inca nổ ra giữa 2 vương tử Atahualpa và Huáscar để tranh giành
ngôi báu.
Giữa
lúc đó, hai tướng Francisco Pizarro và Diego de Almagro của đế quốc Tây
Ban Nha dẫn quân xâm lược Inca, chia làm hai cánh quân tấn công các
thành phố quan trọng. Cuộc nội chiến biến thành cuộc chiến tranh tay ba
giữa quân đội Tây Ban Nha và 2 vương tử. Atahualpa đánh bại và đuổi đi
Huáscar, lên ngôi vua. Thực dân Tây Ban Nha hành thích Huáscar sau đó đổ
cho Atahualpa, kích động mọi người chống Atahualpa hay ít nhất không
ủng hộ, giúp đỡ tân hoàng đế. Không lâu sau đó Atahualpa bị tướng Tây
Ban Nha Francisco Pizarro đánh bại và hành quyết. Người Tây Ban Nha đưa
vương tử trẻ Manco Inca lên làm "hoàng đế".
Năm
1536, hoàng đế Manco không cam tâm làm một con rối nữa, thì một cơ hội
bằng vàng đã xuất hiện: Hai đại gia tộc Tây Ban Nha ở đây là gia tộc
Pizarro và gia tộc Almagro là hai thế lực lớn tại đây và đang rạn nứt,
mâu thuẫn trở súng bắn nhau. Manco thừa cơ ngầm liên lạc với các thế lực
bản địa trung thành, nổi dậy bao vây thành Cusco, tướng Tây Ban Nha là
Juan Pizarro tử trận, và tướng Quizo Yupanqui của Inca kéo quân tấn công
thành phố đặc quyền của người Tây Ban Nha là Lima. Vua Manco thân chinh
chỉ huy gần 3 vạn quân đánh bại tướng Hernando Pizarro cùng với 100
quân Tây Ban Nha và hơn 3 vạn ngụy quân trong trận Ollantaytambo, một
trận đánh lớn trong chiến tranh Tây Ban Nha - Inca.
Nhưng
ngay sau đó người Tây Ban Nha lập tức phục hồi, chuyển bại thành thắng
và tái chiếm thành Cusco. Tướng Tây Ban Nha Rodrigo Orgonez đánh chiếm
Vitcos và bắt làm con tin con trai của Manco Inca là Titu Cusi. Manco
Inca đào thoát và lui vào vùng núi Vilcabamba lập thủ đô kháng chiến, từ
nơi đây Manco Inca và những người nối ngôi đã trị vì thêm được 36 năm
nữa. Năm 1572, cứ điểm cố thủ cuối của người Inca bị thôn tính, và vị
hoàng đế cuối cùng, Túpac Amaru, bị hành quyết. Sự kiện này đã chấm dứt
cuộc kháng chiến chống Tây Ban Nha của người Inca.
Sau
khi hoàn thành bình định lãnh thổ Inca, người Tây Ban Nha hủy diệt thủ
đô kháng chiến Vilcabamba và bắt các nô lệ trai tráng xây lại thành phố
mới theo phong cách thẩm mỹ phương Tây. Những người còn lại, bao gồm cả
người già, trẻ em, phụ nữ bị cưỡng bách di cư qua một thành phố Công
giáo mới là San Francisco de la Victoria de Vilcabamba. Từ đó dân Inca
bị bắt ép đi vào các "nhà thờ" trá hình nghe "giảng đạo", một hình thức
tẩy não, nhồi sọ, đồng hóa. Việc cưỡng bách di cư ra khỏi nơi họ quen
thuộc vừa là để triệt tiêu ưu thế quen thuộc địa hình của họ trong cuộc
chiến tranh du kích, vừa để triệt tiêu ý chí kháng cự bảo vệ quê hương
thôn xóm của họ.
Sau
khi đế chế Inca hoàn toàn sụp đổ, nhiều thành phần văn hóa của Inca bị
hủy diệt có hệ thống, bao gồm hệ thống nghề nông phức tạp của họ. Từ đó,
mỗi một gia đình Inca phải cử 1 người lao động khổ sai ở các mỏ vàng,
mỏ bạc. Khi một thành viên gia đình bị chết, điều rất thường xuyên xảy
ra sau một hai năm, thì gia đình nạn nhân vẫn phải cử 1 người thay thế.
Các
thảm họa, thảm cảnh trên không chỉ xảy ra riêng với người Inca, mà là
xảy ra với hầu hết thổ dân châu Mỹ. Họ bị diệt chủng, diệt tộc, diệt
môn, hủy diệt các nền văn minh, văn hóa. Những người sống sót thì bị
cưỡng bách di cư, đày đọa họ lên Khu dành riêng cho người bản địa Mỹ
(Indian reservation), vốn là những vùng sâu vùng xa, khô cằn sỏi đá. Họ
còn bị tẩy não, nhồi sọ và Tây hóa, Mỹ hóa một cách có hệ thống.
Các
thị tộc, gia tộc hay nhân tài ưu tú, có năng lực lãnh đạo đám đông, đều
bị thực dân đế quốc Mỹ và phương Tây triển khai các chiến dịch "nhổ cỏ
nhổ tận gốc", thủ tiêu, ám sát, hay thậm chí là thảm sát, chôn sống, gây
ra các tội ác diệt chủng đúng nghĩa. Do đó từ đó đến nay các dân tộc đó
tuy còn tồn tại như một dân tộc thiểu số, nhưng không sản sinh ra nổi
một nhân vật kỳ tài kiệt xuất nào như xưa, mặc dù quá khứ của dân tộc họ
rất vẻ vang.
Một
vấn đề đáng nói rút ra sự kiện mất nước, vong quốc của Aztec và Inca
là: Có rất nhiều dân tộc, bộ tộc, bộ lạc, thế lực chung quanh Aztec và
Inca lâu nay do ghét hoặc sợ trước sự lớn mạnh của 2 đế chế cường thịnh
này, hoặc bị 2 anh to con này chèn ép, bắt nạt, rồi bị người Tây Ban Nha
dụ dỗ, họ liền liên minh đi theo quân Tây Ban Nha đánh anh hàng xóm to
lớn kia. Và sau khi Aztec, Inca sụp đổ thì chính họ cũng bị "làm thịt"
nốt. Khi thế lực mạnh nhất trong vùng đã tan rã trước kẻ thù bên ngoài,
thì các thế lực nhỏ hơn cũng không thể tồn tại.
So
sánh với trường hợp Việt Nam thì chúng ta có thể nhận định rằng cha
ông, cha anh ta thật khôn ngoan, già dặn, lão luyện hơn nhiều so các dân
tộc láng giềng của đế chế Aztec và Inca. Dù không ưa và luôn đề cao
cảnh giác trước anh hàng xóm to con, nhưng trong lịch sử dân mình chưa
bao giờ ủng hộ các thế lực bên ngoài xâm lược Trung Quốc, dù đó là đế
chế Mông Cổ, bộ tộc Mãn Châu, Bát quốc liên quân, hay đế quốc Nhật Bản.
Các
lãnh tụ nghĩa quân kháng Pháp như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật
và nhiều người khác đều đã từng sang Trung Quốc nhờ giúp đỡ chống Pháp.
Về sau, cách mạng Việt Nam cũng nhờ sự giúp đỡ một phần của Trung Quốc
để chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Ông
bà tổ tiên Việt Nam đã truyền dạy khái niệm "Bà con xa không bằng láng
giềng gần" cho con cháu. Đó là sự đúc kết từ trải nghiệm ngàn năm từ
thực tiễn cuộc sống thu nhỏ. Bởi vì láng giềng gần dù muốn dù không, vẫn
có mối quan hệ lợi ích cộng sinh gắn kết hơn nhiều so với những người ở
xa, dù đó là bà con họ hàng của chúng ta đi nữa.
Thường
các cụ không dạy sai bao giờ, vì đó là từ những kinh nghiệm xương máu.
Nếu tìm hiểu và xem xét lịch sử Việt Nam và thế giới, xem các kết quả,
các mối quan hệ nhân quả, thì chúng ta càng thấy ông bà mình dạy đúng.
Rất
tiếc lâu nay luôn có một bộ phận do không nhìn thấy hoặc không muốn
nhìn thấy những đạo lý đó, nên thường hay có tư tưởng làm trái lời dạy
tiền nhân, luôn muốn dựa vào những kẻ không hề là "bà con" ở cách xa nửa
vòng trái đất, để chống lại tên hàng xóm to lớn ngang ngược.
Chẳng
những họ không hề là "bà con", mà còn là những cựu thù có bề dày tội ác
chất cao như núi ở Đông Dương, Đông Nam Á và khắp thế giới. Các "thành
tích" tội ác và bành trướng của họ đã là ở tầm vóc toàn cầu và bỏ xa tên
hàng xóm phía Bắc, dù rằng tên hàng xóm đó cũng chẳng phải là "thiện
nam tín nữ" gì.
Chiến cuộc tại Hoa Kỳ
Năm
1776, chiến tranh Cherokee II (chiến tranh Cherokee I là cuộc chiến
giữa người Cherokee và đế quốc Anh) xảy ra, lực lượng vũ trang của dân
tộc bản xứ Cherokee chiến đấu tự vệ trước sự xâm lấn của Mỹ vào khu vực
Đông Tennessee và Đông Kentucky của họ. Sau đó cuộc xung đột dai dẳng
tiếp diễn với cuộc chiến tranh Chickamaga, khi các bộ tộc, bộ lạc bản xứ
liên minh lại với nhau chống quân đội Mỹ. Năm 1794, họ thất bại hoàn
toàn và khu vực này bị sát nhập vào các bang Tennessee và Kentucky của
Mỹ.
Năm
1785, chiến tranh Da đỏ Tây Bắc nổ ra, một chuỗi trận đánh đẫm máu giữa
nhiều bộ tộc, bộ lạc, lực lượng người Bắc Mỹ bản xứ với quân đội Mỹ,
bảo vệ lãnh địa của họ ở Ohio. Mục đích của các chiến dịch xâm lược của
quân Mỹ là để áp đặt quyền làm chủ thực tế của chính phủ Mỹ tại các vùng
đất mới này. Chiến tranh kết thúc năm 1795 với phần thắng thuộc về Mỹ.
Năm
1810, các tộc người Mỹ bản địa ở Tây Florida tuyên bố độc lập. Tổng
thống Mỹ James Madison tức tốc cho lục quân Hoa Kỳ đến xâm chiếm, tiêu
diệt nhà nước non trẻ và sát nhập Tây Florida vào liên bang Mỹ.
Năm
1812, Mỹ đánh chiếm vùng Ohio (nơi các thế lực thực dân châu Âu và thổ
dân Mỹ đang giành quyền kiểm soát). Năm 1814, những vùng khác ở Florida
lúc này đang là thuộc địa của Tây Ban Nha. Khi Tây Ban Nha thất thế thì
Anh và Mỹ xông vào giành nhau. Tướng Mỹ Andrew Jackson đánh bại quân Anh
và chiếm lấy thành phố Pensacola, Florida.
Năm
1816, Florida bùng nổ cuộc chiến Seminole I, khi tướng Jackson và tướng
Edmund Gaines đem quân truy bắt các nô lệ bỏ trốn. Họ viện cớ người da
đỏ Seminole chứa chấp những nô lệ da đen đang ẩn náu, vi phạm hợp đồng
nô lệ, và cho quân đánh thẳng vào, sát nhập lãnh thổ của người Seminole
vào Bắc Florida. Sau đó Jackson và Gaines mở chiến dịch tấn công một
loạt hải cảng của Tây Ban Nha và chiếm lấy, hàng ngàn công dân Anh, Tây
Ban Nha, người da đen, người da đỏ đã bị hành quyết. Năm 1819, tất cả
những vùng ở Florida sát nhập vào nước Mỹ.
Lili'uokalani,
nữ hoàng cuối cùng của đảo quốc HawaiiNăm 1835 - 1842, người Seminole
lần nữa nổi dậy giành lại đất của họ ở Florida nhưng đều bị lục quân Mỹ,
với sự trợ giúp của hải quân, đàn áp triệt để. Chính phủ Mỹ viện nhiều
cớ rồi cưỡng ép lưu đày người Seminole qua phía Tây Mississippi. Mỹ cô
lập dân Seminole trong những vùng khô cằn sỏi đá, khan hiếm tài nguyên,
không thể trồng trọt hay chăn nuôi. Chính phủ Mỹ đã đẩy dân tộc Seminole
xa khỏi quê hương của họ, kết thúc 7 năm kháng chiến của người
Seminole.
Năm
1890 xảy ra trận đánh Wounded Knee: Sư đoàn 7 Kỵ binh Hoa Kỳ giết 178
người da đỏ Sioux và Lakota trong một cuộc xô xát giữa lính Mỹ với người
Lakota và người Sioux gần sông Woulded Knee. Liên quân Lakota và Sioux
còn bị thương 89 người, 150 người mất tích; lục quân Hoa Kỳ bị chết trận
25 người, 39 người bị thương. Trong trận này người Lakota và Sioux đã
tận dụng sự thông thạo địa hình để đột kích và phục kích kỵ binh Mỹ, và
đã gây thương vong đáng kể cho quân đội Mỹ. Nhưng họ vẫn bại trận.
Năm
1893, quân đội Mỹ xâm lược và đảo chính, lật đổ vương quốc Hawaii, sát
nhập nước này vào liên bang Hoa Kỳ. Mỹ đồng thời xâm lược và chiếm luôn
đảo Palmyra gần đó.
Ngoài
ra còn có khoảng 100 cuộc chiến và hàng chục ngàn trận chiến khác đã
diễn ra trên đất Mỹ từ năm 1783 đến 1924. Cuối cùng, cuộc kháng chiến bi
hùng 302 năm chống thực dân phương Tây và 141 năm chống đế quốc Mỹ của
thổ dân Mỹ đã thất bại hoàn toàn.
Cuộc
chiến Apache tại mặt trận Tây Nam vào năm 1924 giữa kháng chiến quân
của tộc Apache chống đỡ cuộc xâm lăng của quân đội liên bang Hoa Kỳ đã
đánh dấu kết quả chiến bại cuối cùng và khép lại cuộc kháng chiến trường
kỳ 302 năm của người Mỹ bản xứ, kể từ trận Jamestown năm 1622 giữa thực
dân Anh và liên minh Powhatan ở thuộc địa Virginia.
Đàn áp những cuộc nổi dậy trong nước
Năm
1786 - 1787, cuộc khởi nghĩa Shays ở miền Tây bang Massachusetts để
chống lại tệ nạn áp bức siết tín dụng, siết nợ của tư bản tài phiệt Mỹ.
Cuộc khởi nghĩa bị dẹp sau gần 1 năm.
Năm
1791 - 1794, cuộc khởi nghĩa Whiskey chống sưu cao thuế nặng và bất
công xã hội, bắt dân phải gánh nợ chiến tranh. Cuộc khởi nghĩa nổ ra sau
nhiều cuộc biểu tình ôn hòa bị quân đội đàn áp bằng súng đạn. Cuộc khởi
nghĩa bị dẹp sau 3 năm.
Năm
1799 - 1800, để trang trải chi phí cho cuộc hải chiến Quasi chống Pháp,
chính phủ Mỹ đánh thuế nặng nề bất động sản. Cộng đồng người Mỹ gốc Hà
Lan nổi dậy chống cự, hình thành cuộc nổi dậy Fries. Nhưng cuộc nổi dậy
sau đó bị dẹp.
Ngoài
ra còn nhiều cuộc nổi dậy khác nhưng chỉ mang tính tự phát, cô lập với
quy mô nhỏ. Nói chung, từ năm 1776 đến năm 1973, quân đội Hoa Kỳ đã trấn
áp và đánh dẹp khoảng 30 cuộc khởi nghĩa chống hệ thống nô lệ, sưu cao
thuế nặng và bất công giai cấp.
Đánh phá châu Mỹ Latinh
Năm
1916, Mỹ đem quân viễn chinh xâm lược Cộng hòa Dominican và chính thức
đô hộ thuộc địa này đến năm 1924 mới dần trao quyền lại cho người bản xứ
quản lý. Năm 1965, Mỹ đưa quân vào tấn công Đảng Cách Mạng Dominican và
Đảng Cách Mạng 14 tháng 6 khi hai đảng cánh tả này đang tổ chức biểu
tình chống chính quyền quân sự thân Mỹ.
Năm
1983, Mỹ đem quân xâm lược đảo quốc Grenada, tiêu diệt Chính phủ Nhân
dân Cách mạng Grenada. Cuối năm 1989, Mỹ đem 2 vạn quân tấn công Panama,
giải tán Lực lượng Vũ trang Công lập Panama.
Năm
1991, trong bối cảnh Haiti đang là một chư hầu (nước nhỏ thần phục nước
lớn) của Mỹ dưới sự cai trị của tổng thống độc tài thân Mỹ
Jean-Bertrand Aristide (từng nhiều lần cho cảnh sát tấn công đàn áp các
cuộc biểu tình ôn hòa của các phe đối lập), tướng Raoul Cédras là tổng
tư lệnh, tổng chỉ huy quân đội Haiti, đã dẫn quân làm đảo chính lật đổ
Aristide và thiết lập một chính quyền quân sự. Dưới sự can thiệp ngoại
giao của Mỹ, Aristide thoát án tử hình và sống lưu vong. Năm 1994, Mỹ
lấy danh nghĩa bảo vệ dân chủ, "phù Aristide diệt Cédras" đem quân xâm
lược Haiti, đưa Aristide về cầm quyền.
Từ
đó, ngành du lịch, nông nghiệp và các tài nguyên chủ chốt như điện và
nước ở Haiti đều do các tập đoàn người Mỹ nắm giữ, đến nay Haiti là nước
nghèo nhất và có mức sống thấp nhất châu Mỹ, đối diện thường trực với
nạn đói, thất nghiệp, tham nhũng và kém minh bạch (nhất là các hồ sơ lao
động). Tăng trưởng kinh tế cao nhất mà Haiti đạt được từ ngày bị Mỹ xâm
lược là 1,8% năm 2006. Hiện nay Haiti đang bị tăng trưởng âm.
Xâm lấn Mexico
Sau
cuộc chiến Hoa Kỳ - Mexico (1846-1848), Mexico thua, buộc phải ký hòa
ước bất bình đẳng Guadalupe Hidalgo, chấp nhận nhiều điều khoản bất bình
đẳng và "trao trả độc lập" cho Texas. Nhưng sau đó Texas được sát nhập
vào Hoa Kỳ. Mexico mất Texas vào tay Mỹ.
Mỹ
còn gây áp lực ép Mexico phải bán vùng đất Mexican Cession (ngày nay là
vùng tây nam Hoa Kỳ) trù phú cho Mỹ với giá 15 triệu USD. Mỹ cũng tỏ
thái độ "tốt bụng" và "xóa nợ" 3 triệu USD trong số tiền mà Mỹ đòi hỏi
Mexico "bồi thường" chiến tranh và cáo buộc rằng Mexico "nợ" họ tiền chi
phí chiến tranh.
Năm
1853, Mỹ lại ép Mexico bán rẻ lãnh thổ ở một vùng đất tiềm năng giáp
ranh biên giới Hoa Kỳ - Mexico, với giá 10 triệu USD. Vùng này ngày nay
là phía nam Arizona và tây nam New Mexico. Mỹ cần khu vực này để làm một
dự án đường rầy xe lửa. Về sau, Mỹ phát triển và hợp nhất những vùng đã
"mua" được này và hình thành hai tiểu bang Arizona và New Mexico.
Từ
năm 1873 đến 1896, lính Mỹ thường xuyên vượt biên giới Mexico, xâm
thực, lấn đất, phá hoại, cướp gia súc và của cải. Năm 1876, Mỹ chiếm giữ
thị trấn Matamoros của Mexico.
Năm
1905, sau thỏa ước Banco, Mỹ có thêm 2 vùng đất từ Mexico ở sông
Colorado giáp ranh Arizona, tổng cộng 842,4 mẫu Anh (3,409 km2). Về sau,
Mexico nhượng tiếp 3 hòn đảo và 68 khu đất cho Mỹ, tổng cộng 1.275,9
mẫu Anh (5.163 km2).
Năm
1963, Mỹ và Mexico ký hòa ước Chamizal, kết thúc gần 100 năm tranh chấp
đất đai giữa hai nước ở vùng nay là El Paso, Texas. Hiệp định này còn
sát nhập 264 mẫu Anh (1,07km2) vào nước Mỹ.
Năm
1970, Mexico phải ký với Mỹ hiệp định biên giới sát nhập 823 mẫu Anh
(3,33 km2) đất, thuộc vùng đất màu mỡ Presidio và Hidalgo vào nước Mỹ,
với lý do "xây hệ thống chống bão lụt". Năm 2009, Mexico nhượng 3 hòn
đảo có tiềm năng du lịch và 2 khu vực màu mỡ khác cho Mỹ, tổng cộng
63,53 mẫu Anh (0,2571 km2).
Trong
vài hiệp định, Mỹ có "bù đắp" lại cho Mexico một số vùng đất nhưng đều
là những vùng đất khô cằn, kém tài nguyên, không thể trồng trọt, chăn
nuôi. Ngược lại, những vùng mà Mỹ được từ Mexico phần lớn là những vùng
đất khá màu mỡ, có tài nguyên tốt hơn.
Tham gia xâm lược Trung Quốc
Trong
cuộc Chiến tranh Nha phiến lần II (1856-1860), đế quốc Mỹ đã hỗ trợ và
viện trợ cho thực dân Anh - Pháp xâm lược Trung Quốc, giao tranh với
quân đội nhà Thanh. Hải quân Mỹ, dưới sự chỉ huy của 2 tướng Andrew Hull
Foote và James Armstrong đã đánh chìm và đánh bại thủy binh nhà Thanh
trong trận sông Châu Giang (Quảng Châu).
Tàu
chiến USS Portsmouth của hải quân Hoa Kỳ tham chiến trong Chiến tranh
Nha phiến và trận Châu GiangNăm 1898, trong chiến tranh xâm lược
Philippines, Mỹ còn gởi khoảng 6 vạn quân từ Philippines sang Trung Quốc
tham gia Bát quốc liên quân (Liên quân tám nước: Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Ý,
Nhật, Nga, đế quốc Áo-Hung), dưới sự thống lĩnh của tướng Adna Chaffee,
xâm lược Trung Quốc, đánh bại quân nhà Thanh và lực lượng Nghĩa Hòa
Đoàn.
Sau
khi Bắc Kinh thất thủ, triều Thanh bị ép phải ký hiệp định bất bình
đẳng, cắt đất cầu hòa và chịu nhượng bộ nhiều điều khoản bất bình đẳng
khác. Các khu tô giới người Mỹ và khu vực đặc quyền của Mỹ được thành
lập ở Trung Quốc và các vùng lãnh thổ thuộc nước này.
Xâm chiếm Philippines
Cuộc
chiến tranh giành thuộc địa giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ bùng nổ vào năm
1898, sau cuộc chiến, Hoa Kỳ giành được Philippines và đảo Guam từ tay
Tây Ban Nha, đồng thời xâm lược vịnh Guantanamo của Cuba, lúc này đang
là thuộc địa của Tây Ban Nha, và giữ đến nay. Cùng năm, Mỹ tấn công vào
Puerto Rico, 15 ngàn quân Mỹ đánh bại 8 ngàn quân Tây Ban Nha và 10 ngàn
ngụy quân bản xứ, xâm chiếm Puerto Rico từ tay Tây Ban Nha và giữ đến
nay. Sau khi giành 4 thuộc địa về tay, Mỹ trả lại cho Tây Ban Nha 20
triệu USD "tiền an ủi".
Tại
Philippines, sau khi Tây Ban Nha bị Mỹ đá văng, Đệ nhất Cộng hòa
Philippines được người Phi thành lập để chống Mỹ và giành độc lập, nhưng
ngay lập tức Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược. Cuộc chiến giữa quân Mỹ
và quân dân Philippines kéo dài 3 năm. Kết quả Mỹ chiến thắng tuyệt đối,
Cộng hòa Philippines bị Mỹ giải thể, Philippines trở thành thuộc địa
của Mỹ.
Năm
1946, trước áp lực và thắng lợi liên tiếp của phong trào cách mạng vô
sản, giải phóng dân tộc và giải phóng thuộc địa trên toàn cầu, Mỹ buộc
phải nhượng bộ và tuyên bố trao trả độc lập cho Philippines trên danh
nghĩa, sau gần nửa thế kỷ đô hộ Philippines theo kiểu thực dân, thuộc
địa cổ điển. Đảo Guam và Puerto Rico vẫn là hai lãnh thổ phi chính thức
của Mỹ.
Xâm lược Bắc Triều Tiên
Năm
1950, đại quân CHDCND Triều Tiên do nguyên soái Kim Nhật Thành đích
thân chỉ huy đã vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực xuống Hàn Quốc, tốc
chiến tốc thắng tiến thẳng về thủ đô Hán Thành truy đuổi Lý Thừa Vãn. Lý
Thừa Vãn bị thua, lâm nguy đành khẩn cấp cầu viện Mỹ. Chính phủ Mỹ lấy
danh nghĩa Liên Hiệp Quốc, cử danh tướng Douglas MacArthur - người hùng
của Thế chiến II - làm tổng chỉ huy, các tướng Matthew Ridgway, Mark
Wayne Clark phụ tá, sang Hàn Quốc cứu nguy Lý Thừa Vãn.
MacArthur
dùng kỳ binh làm một cuộc đột kích vào khu vực Nhân Xuyên, cắt đôi quân
đội Triều Tiên, làm họ đầu đuôi không thể cứu ứng nhau. Sau đó đánh bại
gần 30 vạn quân Triều Tiên. Nhân cơ hội quân Triều Tiên bị vỡ trận, hỗn
loạn và không còn khả năng chống cự, gần 30 vạn liên quân 16 nước đứng
đầu bởi Mỹ - Anh vượt vĩ tuyến 38 xâm lược Bắc Triều Tiên, tiến về thủ
đô Bình Nhưỡng truy bắt Kim Nhật Thành và gia đình. Kim và các nhân sự
cao cấp của CHDCND Triều Tiên đành đào vong sang Mãn Châu, Trung Quốc và
cầu viện khẩn cấp.
Trước
tình hình Mỹ - Anh đã đến sát sườn và MacArthur liên tục hạ lệnh cho
ném bom và pháo kích sang phía Trung Quốc để phá hủy các căn cứ quân sự
biên phòng của Trung Quốc. Mao Trạch Đông phái danh tướng Bành Đức Hoài -
người hùng của nội chiến Trung Quốc và chiến tranh chống Nhật - làm
tổng chỉ huy, hai tướng Đặng Hoa, Dương Đắc Chí làm phụ tá, đem hơn 100
vạn quân vượt sông Áp Lục sang Triều Tiên cứu Kim Nhật Thành.
Chỉ
trong vòng một thời gian rất hạn hẹp mà Bành Đức Hoài tập kết siêu tốc
được nhiều quân như vậy, đó được coi là một kỳ tích khó hiểu mà đến ngày
nay với khoa học kỹ thuật tiên tiến, phương tiện chuyên chở tốc độ cao
cũng vẫn khó thực hiện. Điều bất ngờ đó đã làm Mỹ và liên quân bị choáng
váng trong thời gian đầu, vì đến MacArthur trước đó cũng không ngờ một
cuộc tập trung quân đội siêu tốc như vậy lại khả thi. Phía Mỹ và Liên
Hiệp Quốc không ngờ Trung Quốc có thể xuất quân và sang đánh nhanh như
vậy.
Cuộc
chiến diễn ra vô cùng khốc liệt. Sau cuộc chiến, Mỹ - Anh chiếm được
vài khu vực trước cuộc chiến thuộc về CHDCND Triều Tiên. Sau đó họ giao
lại cho Hàn Quốc quản lý.
Xâm lược Việt Nam, chiếm đóng miền Nam, tấn công miền Bắc
Cũng
năm 1950, Mỹ dù đang bận rộn trên bán đảo Triều Tiên nhưng vẫn không
quên các lợi ích của bán đảo Đông Dương. Họ bắt đầu đứng sau ủng hộ và
giúp đỡ Pháp xâm lược tái chiếm Việt Nam. Năm 1954, Mỹ từng bước hất
cẳng và thay chân Pháp, mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn miền Nam,
tấn công những vùng giải phóng, thiết lập hệ thống thuộc địa kiểu mới
trong những vùng tạm chiếm.
Từ
đó, những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam có khoảng 6 triệu người Mỹ
đi khắp nơi sinh hoạt như là nhà của họ, trong đó có gần 60 vạn quân Mỹ
tàn phá, bắn giết, hãm hiếp, tàn sát khắp nơi. Gần nửa triệu con lai Mỹ
ra đời, khiến sau này hình thành một diện xuất cảnh chưa từng có trên
thế giới là "diện con lai".
Chiến
tranh kéo dài đến năm 1975. Sáng ngày 30/4/1975, 10 người lính Thủy
quân Lục chiến cuối cùng của Mỹ lên trực thăng rời khỏi lãnh thổ Việt
Nam, chiến tranh kết thúc. Đây là lần duy nhất trong lịch sử mà người Mỹ
đã thua cuộc và thật sự trắng tay trong một cuộc chiến.
Cướp phá Trung Đông và châu Phi
Năm
1801, Mỹ đem quân tấn công và cướp bóc ở vùng tam giác Bắc Phi, đánh
nhau với đế chế Ottoman và vương quốc Tripoli, vùng đất của Libya ngày
nay. Đến năm 1805, quân đội Mỹ đánh bại Ottoman và Tripoli, cướp đoạt
tài nguyên và tài sản, ép bên kia ký hòa ước bất bình đẳng. Đồng thời họ
tiện tay đánh phá Maghreb (Maroc, Algérie và Tunisia ngày nay - vùng
Tây Bắc châu Phi).
Năm
2001, Mỹ cầm đầu liên quân năm nước và Liên minh phương Bắc (một thế
lực lâu nay đối đầu với Taliban) công kích thẳng vào Afghanistan, đánh
bại quân đội Taliban và lực lượng Hồi giáo cực đoan Al-Qaeda của thủ
lĩnh Osama bin Laden, "bảo hộ" Afghanistan. Taliban và Al-Qaeda rút vào
rừng núi Afghanistan tiếp tục cầm cự.
Năm
2003, Mỹ tiến hành chiến dịch "Iraq Tự do", với lý do "Saddam Hussein
sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt", cầm đầu liên quân năm nước, đem gần
15 vạn quân, dưới sự chỉ huy của tướng Tommy Franks tiến công thẳng vào
Iraq và tốc chiến tốc thắng tiến về thủ đô Baghdad lật đổ chính quyền
Iraq và treo cổ tổng thống Saddam Hussein. Sau cuộc chiến, các nhà báo
phóng viên quốc tế đổ xô vào Iraq để làm phóng sự về "vũ khí hủy diệt
hàng loạt" nhưng không ai tìm thấy. Đại quân Mỹ tiếp tục chiếm đóng tại
đây đến năm 2011.
Năm
2011, Mỹ và NATO đứng sau hậu thuẫn phiến quân ở Libya, bao gồm cả các
tổ chức vũ trang Hồi giáo cực đoan, trong đó có tổ chức khủng bố quốc tế
Al-Qaeda.
Ngày
19/3/2011, Mỹ mở chiến dịch Phiêu lưu Rạng đông (Odyssey Dawn), đem các
lực lượng không quân, hải quân, thủy quân lục chiến và đội ngũ CIA cùng
với các vũ khí hạng nặng tối tân (đặc biệt là các máy bay không người
lái) tiến vào lãnh thổ Libya. Quân đội Mỹ đặt dưới sự chỉ huy của tổng
tư lệnh quân đội Mỹ ở châu Phi, tướng Carter Ham, tướng tư lệnh liên
quân Samuel Locklear, tướng chỉ huy đặc nhiệm Harry Harris, và tướng
Margaret Woodward.
Ngày
31/3/2011, Mỹ trao lại quyền điều khiển, chỉ đạo chiến dịch cho NATO
với tên gọi mới là chiến dịch "Bảo vệ Thống nhất". Trong các chiến dịch
này, Mỹ và NATO đã không kích tan hoang Libya, dội bom vào một số khu
vực dân sự, làm chết nhiều dân thường và không yểm cho lực lượng phiến
quân Libya. Cuộc chiến kết thúc với sự chiến thắng của Mỹ, NATO và phiến
quân, sự sụp đổ của chế độ Libya, và cái chết của lãnh tụ, đại tá
Gaddafi.
Sau
cuộc chiến, Libya từ một trong những nước có kinh tế và mức sống cao
nhất châu Phi, điện, y tế và giáo dục miễn phí, giá xăng rẻ, mua xe được
trợ cấp 50% giá, không nợ xấu v.v. đã trở thành một nước tan hoang hoàn
toàn, bắn giết liên miên giữa các phe phái, nhiều khu vực trở thành
vùng ly khai, tự trị, tự quản, đa phần dùng danh nghĩa trung thành với
lãnh tụ Gaddafi để chiến đấu.
Hai
kế hoạch đầy triển vọng của Gaddafi là làm hệ thống dẫn nước khổng lồ,
lớn nhất thế giới để cung cấp nước cho toàn bộ nông thôn Libya và cải
cách hệ thống tiền tệ để thay thế đồng đô la Mỹ, không còn phải lệ thuộc
vào đồng USD nữa, đã hoàn toàn tiêu tan theo khói lửa chiến tranh. Các
tài sản, tiền bạc, ngoại tệ, bao gồm cả USD của Libya là tiền đóng thuế
từ mồ hôi lao động của nhân dân Libya và tiền họ có được từ sự bán dầu,
bán tài nguyên, bán sức lao động, đã bị Mỹ và phương Tây gọi đó là "tiền
riêng của cá nhân Gaddafi ăn cướp dân lành" rồi phong tỏa, chia nhau
các chiến lợi phẩm.
Xâm lược và chia cắt Samoa
Từ
năm 1886 đến 1894, liên quân ba nước Mỹ, Anh, Đức xâm lược vương quốc
Samoa và thực dân hóa quần đảo Samoan (bao gồm 17 đảo), nô lệ hóa dân
tộc Samoa. Sau đó ba nước quay sang tranh nhau, dùng cả lính đánh thuê
bản địa giao chiến với nhau, các phe đảng bản xứ thân Mỹ, thân Anh, thân
Đức giao tranh với nhau.
Kết
quả là sau hiệp định Berlin 1899, nhà nước Samoa bị xóa sổ, Samoa bị
chia đôi thành Đông Samoa và Tây Samoa. Mỹ chiếm Tây Samoa, hình thành
American Samoa (Samoa thuộc Mỹ). Đức và Anh chia nhau Đông Samoa, sau đó
Đức hất cẳng Anh và chiếm toàn bộ Đông Samoa, hình thành German Samoa
(Samoa thuộc Đức). Trong Thế chiến I, lợi dụng sự thất thế của đế chế
Đức, hải quân New Zealand, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ và Úc, tiến chiếm
Đông Samoa từ tay người Đức.
Các tàu chiến của Mỹ, Anh, Đức ở cảng Apia, Samoa, 1899.Các hành động, chiến dịch khác ở hải ngoại
Năm
1798 - 1800, cuộc hải chiến Quasi xảy ra, đó là một cuộc chiến tranh
không tuyên bố với hàng loạt xung đột dai dẳng trên biển giữa hai đế
quốc Mỹ và Pháp. Kết quả là Mỹ thắng, chiến lợi phẩm là thành phố lớn
Puerto Plata của Dominican, lúc đó đang là thuộc địa của Pháp.
Năm
1867, Mỹ mua lại thuộc địa Alaska từ đế chế Nga. Alaska trở thành thuộc
địa của Mỹ, đến năm 1959 mới chính thức thành một tiểu bang gia nhập
liên bang Hoa Kỳ.
Trong
Thế chiến I, Mỹ thừa cơ chiếm quần đảo Virgin từ tay Đan Mạch trong một
chiến dịch công kích chớp nhoáng, biến thành sự đã rồi. Sau đó ký hiệp
định với Đan Mạch để hợp thức hóa sự kiểm soát, chiếm đóng của Mỹ trên
quần đảo này. Quần đảo Virgin vốn từ lâu là lãnh thổ nằm dưới quyền quản
lý của ba bộ tộc Ciboneys, Arawaks, Caribs, sau đó bị các nước thực dân
phương Tây xâm lược và đô hộ. Sau thời gian dài tranh nhau và thỏa
hiệp, quần đảo này trở thành thuộc địa của Đan Mạch, cho tới khi bị Hoa
Kỳ giành lấy.
Năm
1947, nằm trong sự phân chia lại lợi ích thuộc địa sau Thế chiến II,
Liên Hiệp Quốc, dưới sức ép của Mỹ, giao lại cho Mỹ quần đảo Marshall,
liên bang Micronesia, quần đảo Bắc Mariana và Palau.
Năm
1999, Mỹ và NATO cầm đầu liên quân mười ba nước, mở cuộc không kích 78
ngày đêm vào Cộng hòa Liên bang Nam Tư. Sau cuộc chiến tranh Kosovo, Mỹ
và NATO càng củng cố chắc chắn hơn sự tan rã và chia cắt của Cộng hòa
Nam Tư.
oOo
Trong
các cuộc chiến bành trướng gần đây của Mỹ, có thể nói quân đội, nhân
dân và đất nước Mỹ trắng tay, nhưng chính phủ Mỹ, các thế lực tư bản tài
phiệt và lái buôn chiến tranh của Mỹ thì không hề tay trắng. Họ đã
thành công duy trì được nguồn cầu vũ khí (trước mắt là các thế lực vũ
trang mới nổi, đang đánh nhau liên miên ở các nước đã bị Mỹ đánh vào như
Iraq, Aghanistan, Libya....). Mỹ tiếp tục là nguồn cung vũ khí lớn nhất
và đắt hàng nhất thế giới.
Về
chính trị và quân sự, họ kiểm soát, khống chế được hai đầu Trung Đông,
mượn Iraq chỉa súng thẳng vào Iran, tăng cường sức mạnh cho đàn em thân
tín Israel. Về kinh tế và tài nguyên, họ nắm được hai nguồn dầu lớn ở
Iraq và Libya, các mỏ kim loại, vàng, kim cương, đá quý, khoáng sản, và
nguồn nước ngọt dồi dào ở Libya, nguồn ma túy lớn ở Aghanistan vốn lâu
nay do Taliban kiểm soát. Đồng thời họ cũng kiểm soát được hệ thống tiền
tệ, tài chính ở Libya, đoạn tuyệt nguy cơ đồng USD bị Gaddafi gây hại,
thay thế. Như vậy, các thế lực tư bản lớn ở Mỹ như FED, tài phiệt Phố
Wall và tài phiệt lái buôn chiến tranh của các tập đoàn sản xuất, phân
phối vũ khí đều có lợi.
Xem
lại lịch sử thì có thể thấy từ thế kỷ 15 đến nay, quá trình bành trướng
lan tỏa thực dân hóa trên phạm vi toàn cầu vẫn tiếp diễn bằng hình thức
này hay hình thức khác. Bình mới nhưng rượu vẫn cũ. Từ chủ nghĩa thực
dân cổ điển chuyển sang chủ nghĩa thực dân mới. Khác chăng là ở hình
thức xâm lược, danh nghĩa chính trị, thủ đoạn ngụy trang, mức độ can
thiệp và mức độ trục lợi.
Một
điểm đáng chú ý nữa là họ hầu như luôn luôn đi "xâm lược nhóm", đi đánh
các nước khác theo nhóm. Từ các cuộc gây chiến tranh thôn tính châu Mỹ
(các đế quốc thực dân liên kết với nhau cùng đánh, hoặc chiêu dụ các lực
lượng bản xứ nhỏ cùng theo họ đánh một lực lượng bản xứ lớn), đến Bát
quốc đuổi Từ Hy ở Trung Quốc, đến liên minh các nước từ các cuộc chiến
lặp đi lặp lại gần đây với mọi "lý do chính đáng". Mỹ và phương Tây gần
như chưa bao giờ đánh ai một mình trong các chiến dịch xâm lược lớn.
Lịch
sử cận đại và hiện đại ở nước ta cũng vậy, tất cả các cuộc chiến chống
Mỹ và phương Tây xâm lược từ năm 1858 đến 1975 đều như vậy. Năm 1858,
liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh vào Đà Nẵng và mở đầu cuộc xâm lược
lâu dài Việt Nam. Năm 1946, Pháp theo chân Anh quay lại Việt Nam. Năm
1950, Mỹ bắt đầu tăng cường hỗ trợ và viện trợ cho Pháp xâm lược tái
chiếm Đông Dương. Sau đó, Mỹ thay chân Pháp, kéo vào Việt Nam các đồng
minh, chư hầu.
Nhiều
người ví von hiện tượng trên với hình tượng "cướp bầy", như sư tử hay
loài sói luôn đi săn mồi cả bầy, và sau đó chia nhau con mồi, chia nhau
chiến lợi phẩm. Bản chất của việc xâm lược theo nhóm cũng có cùng một
đạo lý đó, thực chất là sự chia chác lợi ích ở các nơi bị đánh.
Tất
cả đều xuất phát từ lợi ích, có lợi ích ngắn hạn, có lợi ích dài hạn,
lợi ích địa chính trị, lợi ích địa kinh tế, lợi ích tài nguyên, lợi ích
chiến lược toàn cầu v.v., chứ dĩ nhiên nếu không có lợi thì không ai
muốn gây chiến tranh làm gì để cho máu đổ đầu rơi, hao binh tổn tướng,
tốn tiền tốn của, và còn bị dư luận chống đối, bị biểu tình phản chiến.
Một
cuộc chiến tranh xâm lược có thể xảy ra từ nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân sâu xa và ý nghĩa thật sự của nó vẫn là sự ăn cướp của nước
đi xâm lược đối với nạn nhân bị xâm lược. Dù họ dùng danh nghĩa chính
trị gì đi nữa; tôn giáo, ý thức hệ, phản kích tự vệ, trừng phạt, bảo vệ
đồng minh, bảo vệ hòa bình, bảo vệ / đem tới tự do dân chủ, thì bản chất
các cuộc chiến tranh đều xuất phát từ sự tranh chấp chủ quyền, tranh
chấp lợi ích. Có thể đó là lợi ích dân tộc, hay lợi ích giai cấp, hay
thậm chí là lợi ích phe nhóm, lợi ích cá nhân, hay lợi ích tôn giáo,
nhưng nói chung đều xuất phát từ lợi ích. Do đó nếu cho rằng Mỹ và châu
Âu là những "hiệp sĩ đi cứu nhân độ thế cho hành tinh này", những "chiến
sĩ tự do đi phổ biến dân chủ nhân quyền khắp quả đất này", đi đánh nước
này nước kia, đem bom dội lên nước đó là để "giúp đỡ" nước đó, là vì
các mục tiêu tốt đẹp, là vì chính dân tộc ở nước đó, thì thật là ngây
thơ vậy.
Từ
thời lập quốc tới năm 1924, quân đội Hoa Kỳ đã trải qua hơn 100 cuộc
chiến và hàng vạn trận chiến lớn nhỏ trong quá trình xâm lược, thôn
tính, diệt tộc, chiếm đất của các lực lượng bản địa. Các chủng tộc, dân
tộc bản xứ trước đó có hàng chục triệu người, sau hơn 100 cuộc chiến chỉ
còn lại chừng mấy trăm ngàn người.
Từ
thời lập quốc đến năm 1973, quân đội Mỹ đã đàn áp và đánh dẹp khoảng 30
cuộc khởi nghĩa chống chế độ nô lệ, sưu cao thuế nặng, bất công giai
cấp.
Từ năm 1835 đến năm 1932, quân đội Mỹ đã tham chiến trong gần 10 cuộc chiến tranh, xung đột quân sự biên giới.
Trong
nửa cuối thế kỷ qua, các chính phủ Mỹ và CIA đã nhúng tay giật dây lật
đổ gần 50 chính quyền nước khác, phần lớn nguyên thủ quốc gia trong số
đó là do dân bầu lên. Trong quá trình đó, các trọng điểm quân sự và dân
sự của gần 30 quốc gia đã bị quân đội Mỹ tấn công bằng bộ binh hoặc rải
bom, không kích. Trong đó, hơn 10 quốc gia đã bị Mỹ tấn công, can thiệp
trực tiếp và toàn diện, chứ không chỉ riêng về quân sự.
Trong
bề dày chinh chiến hơn 200 năm đó, quân đội Hoa Kỳ chỉ chịu thất bại
duy nhất 1 lần, ở Việt Nam. Tôi nghĩ đó là điều mà chúng ta nên suy
ngẫm, rút kinh nghiệm, rút ra những bài học, rút ra những niềm tin chiến
thắng và lòng tự tin, tự hào chính đáng để vận dụng nó cho công cuộc
tái thiết và kiến thiết đất nước ngày hôm nay.
No comments:
Post a Comment