BS Nguyễn Văn Thịnh
LTS (Tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh): Bến Tre có nhiều nhân
vật xứng đáng là niềm tự hào chẳng những của một xứ dừa mà còn là của cả
nước ta về lòng TẬN TRUNG VỚI NƯỚC, TẬN HIẾU VỚI DÂN như Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thị Định, Ca Văn Thỉnh…. Tuy nhiên trên Tạp
chí Văn nghệ Hàm Luông, số Xuân Bính Thân 2016 với bài “Xứ dừa – nơi
sinh ra những con người huyền thoại” của tác giả Đinh Hữu Quang đã đưa
Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký sánh ngang tầm những tên tuổi ấy là một
việc làm lộn xòng lịch sử. Chuyện này xưa rồi nhưng lâu lâu lại rộ lên
theo dòng thời cuộc nên “người yêu sử” đành tra lại tích cũ trình với bà
con Bến Tre và bạn đọc gần xa về hai nhân vật lịch sử đầy tai tiếng
này.
Giữa lúc tổ quốc ta bị xóa tên trên bản
đồ thế giới, dân ta làm nô lệ. Trước sức giặc bạo cường, để giành độc
lập và chủ quyền dân tộc, thì cụ Sào Nam quyết liệt: “Đúc gan sắt để dời non lấp biển/ Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”, cụ Tây Hồ chủ trương “Hưng dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, trong khi họ Trương suốt đời tận tâm tận tụy dùng cái tài cái trí của mình nhằm “Mục tiêu biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam!”, cũng như chính tay ông viết ra những lời gan ruột:
- Cái việc người Pháp đặt tên trường Petrus Ky không phải là để vinh
danh công trình sáng tác đa dạng của ông ta mà là để đề cao một thuộc
hạ tận tâm với nhà nước thực dân. Trái lại trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống ách đô hộ phương tây, nhiều thế hệ thầy trò trường
Petrus Ky đã không ngại gian khổ hy sinh, đồng hành cùng dân tộc, trái
hẳn với những việc làm của Trương học giả. Bởi họ vẫn tiếp bước truyền
thống quật cường của dân tộc Việt Nam dù bị đặt trong hoàn cảnh éo le!
Nhân thân và tư liệu về Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) còn lưu nhiều
trong thư khố là bằng chứng hiển nhiên để so với những lời tôn vinh lắt
léo lộn xòng tô đen thành trắng tới mức độ nào. Xin giới thiệu một số
tư liệu để bạn đọc tham khảo và cũng là để nhắn nhủ tới những ai vì
những động cơ bất chính nào đó đã bất chấp sự thật lịch sử dể đánh lừa
công chúng:
1/ Petrus Ký giỏi cỡ nào?
Trước lời ca tụng học giả họ Trương được liệt vào hàng “thế giới thập bát văn hào”, cố TS Vật lý Trần Chung Ngọc làm việc tại ĐH Wisconsin - Madison (Mỹ) và là nhà nghiên cứu lịch sử, tôn giáo được cảm mến, bình luận qua một đoạn văn giản lược như sau:
“Bảo rằng Petrus Ky là “nhà bác ngữ học kỳ tài đa năng, đa diện
trên nhiều lãnh vực khoa học” nhưng không đưa ra bất cứ tác phẩm khoa
học, văn chương tiêu biểu nào của Petrus Ky? Và tổ chức nào đã bầu
chọn Petrus Ky vào hàng đầu danh nhân thế giới? Cố gắng tìm qua internet
tôi chỉ thấy trên trang mạng của Huỳnh Ái Tông
http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/tacgia/truongvinhky.htm
viết về Petrus Ky nhưng không cho biết tài liệu xuất xứ, như sau:
Mười tám tên tuổi trên có phải là các văn hào thế giới? Dupuy, Guizot là chính trị gia. Còn
bác sĩ, đại tướng, thống chế, bá tước… là những đại văn hào của nước
Pháp thời kỳ nào? Tại sao không thấy điểm danh các đại văn hào của Pháp
trong thế kỷ XIX quen thuộc nhất như: H.B Stendhal, A. Lamartine, H.
Balzac, A. Dumas, V. Hugo, P. Mérimée, G. Sand, A. Musset, T. Gautier,
C. Baudelaire, G. Flaubert, A. Daudet, E. Zola; G. Maupassant?
Tác phẩm của các đại văn hào này đều có trong mọi thư viện của các đại học lớn, nổi tiếng nhất trên thế giới, được dùng trong học trình đại học. Sao không tìm được tác phẩm nào của Petrus Ky trong số đó”? Và TS Trần Chung Ngọc đã kết luận: Tôi cho đó là một danh sách “dỏm”. Pétrus Ký chỉ được các quan thầy thực dân Pháp và Vatican biết đến mà thôi”!
[xem Giáo Sĩ Đắc-Lộ & Chữ Quốc Ngữ Của : Minh Vân (của Trần Chung Ngọc)]
“Trong khoảng năm 1873-1874, ông (Trương Vĩnh Ký) được
liệt vào hàng “thế giới thập bát văn hào”, theo mẫu tự như sau: Bác sĩ
Allemand, Banadona d’Ambrum, Bonhomme, Cazot, Đại tướng Chambron, Bá
tước Chambord, Christophie, Conte, Desmaze, Duprat, Dupuy,
Garnier-Pages, Guizot, Lafayette, Lefèvre-Pontalis, Marcon, Pétrus Ký,
Thống chế Saldonha Oliveirae Daun”.
Tác phẩm của các đại văn hào này đều có trong mọi thư viện của các đại học lớn, nổi tiếng nhất trên thế giới, được dùng trong học trình đại học. Sao không tìm được tác phẩm nào của Petrus Ky trong số đó”? Và TS Trần Chung Ngọc đã kết luận: Tôi cho đó là một danh sách “dỏm”. Pétrus Ký chỉ được các quan thầy thực dân Pháp và Vatican biết đến mà thôi”!
[xem Giáo Sĩ Đắc-Lộ & Chữ Quốc Ngữ Của : Minh Vân (của Trần Chung Ngọc)]
2/ Mục đích Petrus Ky viết sách để làm gì?
Nhà nghiên cứu Phạm Long Điền viết:“Trong suốt 28 năm sáng tác,
Trương Vĩnh Ký cho ra đời 121 tác phẩm Việt có, Pháp có. Hầu hết các
tác phẩm của ông đều phục vụ cho quyền lợi của nhà nước thuộc địa và
chính ông cũng đã công khai nhìn nhận chủ đích này”. Trong cuốn “Ngàn năm soi mặt” (Văn Hóa – 2002), góp
phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký, Tiến sỹ Sử học Nguyên Vũ (Vũ Ngự
Chiêu) đặt ra nhiều vấn đề: Có thật là Trương Vĩnh Ký biết tới 26 thứ
tiếng không? Giá trị nội dung các tác phẩm của ông? Không ít cái gọi là
tác phẩm mà thực ra chỉ là 5-10 trang viết khảo luận sơ sài. Và kết
luận:
“Các
công trình sáng tác và trước tác khá đồ sộ, lại có cả sách bằng Pháp
ngữ, nhưng chưa ai thực sự kiểm kê và lượng giá toàn bộ công trình của
ông. Riêng tác phẩm khá dày về “bài giảng sử” bằng Pháp ngữ, khó thể
gọi là một công trình sử học. Đa số chi tiết đều là tin đồn, ngày tháng
hỗn loạn. Khoảng thời gian từ nhà Tây Sơn đến Vua Tự Đức – vì sử dụng
truyền khẩu sử của các nhà truyền giáo Pháp và trên quan điểm hợp thức
hóa tân trào – đầy rẫy sai lầm kỹ thuật cũng như sai lầm có tư tâm,
bất chấp sự thực lịch sử”! (Nguyên Vũ, Văn Hóa – 2002, “Ngàn năm soi mặt”)
Sau này học giả Nguyễn Văn Vĩnh là người hăng hái tiên phong trong
việc Quốc ngữ hóa chữ Nôm ở Bắc kỳ, nói lên sự thật dù không hẳn nhằm
vào một ai nhưng mà chua chát:
“Các đại huynh đã qua nước Đại Pháp, chắc cũng đã biết là dân xứ
ấy, những người như anh em ta có rất nhiều, đã hơn gì con kiến chưa?
Nếu anh em mình ở đó, chỉ vào bậc đánh giầy, thế mà về đến đây đã là
người biết tên, biết tuổi, có danh, có tiếng, đã cực chưa?”.
Học giả Phạm Quỳnh cũng mặc phẩm phục đại triều và hợp tác đắc lực cho người Pháp không ngần ngại buông một lời chê: “Sách của Trương Vĩnh Ký viết chỉ để trẻ con xem”!
3/ Xét từ việc làm cụ thể của Trương Vĩnh Ký trong bối cảnh lịch sử nước Nam ta thời đó:
Trương Vĩnh Ký, được giáo hội Kito đào tạo căn cơ từ tuổi ấu thơ. 19
tuổi (1856) được thụ phong linh mục tại giáo chủng Penang (Malaixia).
Năm 1859, Về Sài Gòn, Trương lập tức gửi thư tới viên đô đốc Page khẩn
cầu động binh đánh lại “kẻ thù của chúng ta” (?) và bộc lộ ra gan ruột:
“Không một người Việt Nam nào theo Kito giáo lại ngần ngại xin
gia nhập làm lính dưới cờ Pháp. Ông vua Việt Nam không theo đạo (Kito)
không phải là vua của họ” (Văn khố Hải quân Pháp, Paris: SUM Vincennes).
Giáo hội Kito tại Việt Nam tỏ ra rất sáng suốt chuyển Trương sang
ngạch thông ngôn cho quân đội Pháp. Trương đã kịp bày tỏ lòng trung
thành với mẫu quốc Pháp và mau chóng được nhà nước thực dân nâng lên bậc
“thông ngôn hạng nhất”. Tất nhiên phải có mặt trong hầu hết các
hội nghị quan trọng giữa Bộ Tham mưu quân đội Pháp với triều đình An
Nam lúc đó. Một sự tình cờ lịch sử, Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký
mau cặp kè nhau trong mối quan hệ buổi đầu giữa Nam triều với Pháp.
Trương tuy thuộc lớp hậu sinh nhưng cùng quê Vĩnh Long. Một trí thức
trẻ tân học tháo vát giỏi giang đã hiến mình cho Chúa và một lòng trung
thành với mẫu quốc kè bên viên quan già gian xảo và bạc nhược. Một đội
quân viễn chinh dày dạn đi xâm lược làm sao không nhận ra điều đó. Hẳn
không là sự sắp xếp vô tình khi Trương từng được chọn làm thông ngôn
cho phái bộ Phan-Lâm để đi đến sự ra đời của hàng ước Nhâm Tuất (1862)
nhục nhã tại Sài Gòn, và sau đó lại tháp tùng phái đoàn An Nam cũng do
Phan làm Chánh sứ sang Paris và Rhoma để xin lại đất! Phan, Trương
thành đôi bạn vong niên mà như cặp bài trùng. Cả hai đều lập công lớn
với nước mẹ Đại Pháp vào buổi đầu chinh phục Việt Nam.
Paul Bert 1833-1886
Chuyến công du qua trời Tây một công đôi việc. Ở Ý, Trương đã làm một
việc rất khôn ngoan là tới thăm viếng nơi lưu giữ hài cốt các cố đạo
tử nạn khi đi giao giảng kinh phúc âm tại xứ Viễn Đông và danh tiếng
của ông lại được đề cao bởi được Giáo hoàng tiếp đón. Trương có dịp làm
quen với chính giới văn hóa Pháp, đặc biệt là Paul Bert, vừa là nhà
khoa học, vừa là chính khách thực dân cực tả.
Tất nhiên chàng trí thức trẻ khôn ranh tỏ lòng hết mình cho nước mẹ
Đại Pháp, đã tạo được mối thiện cảm với một nhân vật tiếng tăm. Năm
1864, trở về Nam kỳ đã là thuộc địa của Pháp, Trương được giao nhiều
trọng trách đúng theo tinh thần “đồng hóa chỉ có thể thực hiện được bằng giáo dục và học vấn”.
Điều khiển trường Thông ngôn, trường Sư phạm. Rồi được trao toàn quyền
tờ “Gia Định báo” – tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Việc phổ
biến chữ Quốc ngữ là nằm trong sách lược của nhà nước thực dân.
Lanessan nói toạc ra: “Ngày nào còn sỹ phu, ngày đó ta còn lo sợ vì họ là những người yêu nước, làm sao chấp nhận được sự đô hộ của ta?”. Giám mục Puginier, là mẫu điển hình cho sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước thực dân với giáo hội Kitô, không cần giấu giếm: “Thay
thế chữ Nho bằng chữ Quốc ngữ, Hội Thừa sai nhằm cô lập các giáo hữu.
Những người này cũng không thể thư từ gì được với bất cứ sỹ phu Tàu hay
Ta nào, các thầy giảng người bản xứ sẽ chỉ có thể đọc một số hiếm
những sách do các thừa sai viết bằng Quốc ngữ cho họ dùng và trong đó
chỉ bàn đến những vấn đề thuần túy tôn giáo”.
Với cả bộ máy thực dân thống trị trên mọi lĩnh vực và bằng nhiều
hình thức, giới sỹ phu Việt Nam không thể bảo vệ được văn tự truyền
thống của mình. Chữ Hán-Nôm bị bức tử thay vì chữ Quốc ngữ, văn hóa
Việt bị mất nhiều hơn được! Thơ văn Hán-Nôm truyền thống dần trở nên
“lép vế” và mai một. Năm 1873, Trương lại được giao đào tạo lớp cai trị
người Pháp và tay sai bản xứ tại Trường Cai trị (Collège des
Stagiaires) mở ra tại Sài Gòn. Từ đó bước chân vào “Hội đồng học chính
cao cấp” để giúp người Pháp lo liệu lâu dài sau cuộc chinh phục xứ này
bằng võ lực.
4/ Chuyến công du Bắc kỳ:
Năm 1872, bất chấp chủ quyền của Việt Nam, lái buôn J. Dupuis ngược
ngạo đưa tàu theo sông Hồng, mở đường lên Vân Nam. Quân Pháp được một
số giáo dân giúp sức, mở rộng đánh chiếm Bắc kỳ, buộc triều đình Huế
phải ký hòa ước Giáp Tuất năm 1874. Cục diện chống Pháp trở nên quyết
liệt, tiêu biểu là phong trào Văn thân với hịch “Bình tây sát tả”. Nam
triều chủ trương nhờ Thanh triều, quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc vào giúp
sức. Quân Pháp đã bị thiệt hại nặng, nên chính quốc không muốn “sinh sự
ở Bắc kỳ”.
Năm 1876, theo lệnh Đô đốc Duperré, Trương Vĩnh Ký được ứng trước ba
tháng lương, để dưới danh nghĩa du lịch Bắc kỳ, Trương Vĩnh Ký tiến
hành một chuyến đi mà căn cứ vào việc đã làm thì không khỏi nghi ngờ đó
là chuyến đi do thám, tìm hiểu các vấn đề lịch sử, địa lý, thổ nhưỡng
và dân tình trước khi quân Pháp có quyết định tiếp theo? Xin trích vài
báo cáo của Trương từ Tonquin (Bắc kỳ) gửi các quan cai trị Nam kỳ
(Cochichine):
“Tôi thiết tưởng có bổn phận, cũng nhân dịp này, cống hiến cho
ngài: Tư tưởng của những người phiến loạn An Nam mà tôi có thể tìm
hiểu ở những nơi có tàu đi qua. Những kẻ phiến loạn, như tôi đã từng
nhiều dịp trình với ngài, họ có lý do cho chủ nghĩa ái quốc của họ: Sự
hận thù đối với các con chiên (công giáo) mà họ cáo buộc là hàng ngũ
bên cạnh người Pháp, được dùng như những kẻ đưa đường chỉ lối”, “Các
quan lại Nam triều thường nói với tôi rằng nước Pháp cố ý xâm chiếm xứ
này. Tôi đã trả lời là không!... Tất cả quý vị đều phải thấy rằng nếu
nhà cầm quyền Pháp có ý muốn xâm chiếm xứ này, họ có thể làm việc đó từ
lâu một cách dễ dàng, không cần bàn cãi gì cả. Quý vị phải hiểu rằng
quý vị là những kẻ yếu, thật sự quá yếu, cần sự giúp đỡ của ai đó để
gượng dậy. Và tốt hơn, quý vị chỉ nên tin vào người bạn đồng minh tiếng
tăm, phải dựa vào họ một cách thành thật để đứng lên, nhưng phải thẳng
thắn, không hậu ý, không mưu tính kín đáo, dang cả hai tay ra với họ
chứ không phải một cái chìa ra còn bàn kia thì giữ lại. Bằng ngược lại,
mệt trí vì những do dự, những điều nói nửa lời đầy âm mưu của quý vị,
nước Pháp buộc lòng phải ngưng che chở, bỏ mặc quý vị với số phận”, “Tổng
quát, tất cả đều tin chắc rằng không thể chống lại người Pháp và nếu
nước Pháp muốn lấy xứ này, có thể làm mà không phải mất nhiều khó khăn,
tốn kém”.
Khẩu khí ấy là của loại người nào, có xứng là của “người thầy, nhà
văn hóa lớn của dân tộc”? Để thưởng công lao ấy, năm 1877 Trương là
người Việt Nam đầu tiên duy nhất được vào ngồi trên một trong mười cái
ghế danh giá của Hội đồng cai trị thành phố Sài Gòn, lương bổng của
Trương đứng hàng thứ ba sau hai người Pháp chóp bu cai trị Nam Kỳ lúc
đó?!
5/ Hợp tác với Paul Bert:
Sau chiến tranh Pháp - Phổ (1870), nước Pháp tuy thắng trận song cũng
lao đao. Cuộc bình định Viễn Đông xa xôi gặp nhiều trắc trở và tốn kém.
Chính giới Pháp nản lòng. Hạ nghị viện đòi rút quân về. Trong số 33 ủy
viên đặc trách bàn thảo vụ Bắc kỳ, chỉ có 6-7 người khăng khăng đòi duy
trì sự chiếm cứ, trong đó có P. Bert. P. Bert hô hào vì danh dự, quyền
lợi thương mại và chính trị… buộc nước Pháp phải ở lại đây! Đầu năm
1886, P. Bert đến Sài Gòn, móc nối ngay với Trương Vĩnh Ký. Trương đã
nhanh nhảu đáp ứng yêu cầu rất hữu hiệu. Trên đường ra Bắc kỳ, Paul đưa
Trương ra Huế, “khéo léo rấm vào Cơ mật viện và Hội đồng nội các của
nhà vua”. Chính sách cai trị “lạt mềm buộc chặt” chứng tỏ tài điều hành
của một kẻ thực dân có học thức. Vua Đồng Khánh rộng lòng trao cho
Trương Vĩnh Ký chức Hàn lâm viện thị giảng học sỹ. Và sau đây là vài
đoạn thư Trương gửi cho P. Bert cho thấy thực chất quan hệ giữa hai
“nhà bác học Pháp - Nam” là gì:
“Trong cái nhìn đặc biệt về lợi ích của nước Pháp, việc Đồng
Khánh lên ngôi quả là may mắn. Vị vua trẻ hoàn toàn bị chinh phục bởi
nước Pháp mà tôi đã dạy cho nhà vua biết và yêu thích tiếng Pháp. Cần
phải lợi dụng các bản chất tuyệt hảo và trung thành của nhà vua. Về
phần tôi, xâm nhập vào Cơ mật viện của nhà vua, vai trò của tôi là làm
cho nhà vua và triều thần hiểu được ý tốt của chính phủ Pháp cũng
như điều động chính sách của chính phủ An Nam đi gần với chính sách của
nước Pháp”, “Tôi sẽ trấn áp những hãnh thần (là người có tư
tưởng chống Pháp), sẽ bao vây lấy nhà vua. Tôi cũng sẽ gom những người
thật sự có khả năng cho Viện cơ mật”, “Tôi xin nhắc lại ngài cái
dự án bình định với những phương tiện hành động đã được mật ước, để
tiến tới thành quả mà chúng ta có thể phô trương. Về phần tôi, ngài có
thể luôn luôn cậy vào sự giúp sức nhỏ yếu của tôi, vì dù sao những cảm
tình của giờ phút đầu tiên đã trở thành một mối nhiệt tâm chân thành
đối với ngài”.
Một mặt, Trương hối thúc Đồng Khánh đào kinh biệt sở Mang Cá để giữ
an toàn nơi đồn trú của binh lính Pháp; thúc đẩy nhà vua hãy bắt thật
nhiều “xâu” mở nhanh con đường ra Quảng Bình, vào Quảng Nam giúp lính
Pháp hành binh tiễu trừ nghĩa sỹ Cần vương ở những vùng xa xôi hẻo
lánh; xúi hoàng thượng “làm ra năm mười khoản ước đưa ông P. Bert nghị lại mà tính với nhau” định rõ quyền hạn của Nam triều và Bảo hộ (Bắc kỳ) nhằm hoàn thành nghị trình thâu tóm Việt Nam theo hòa ước 1884.
Trương Vĩnh Ký cũng khéo giấu mặt trong việc giúp Đồng Khánh ra “Dụ
chiêu hồi” các thủ lĩnh nghĩa quân với lời dụ dỗ ngon ngọt và răn đe
nghiêm khắc. Kết quả là Phò mã Hoàng Kế Viêm, một thời nổi danh chống
Pháp ở phía Bắc, trở thành “hồi chánh viên”, được khai phục hàm Đông
các đại học sỹ, giúp việc rất đắc lực cho việc bình định ở Trung kỳ.
Một mặt Trương bày mưu cho Toàn quyền P. Bert: “Hãy nhanh chóng
thành lập các đoàn lạp binh và võ trang cho họ. Ngài không có điều gì
phải quan ngại vì những quân khí do ngài cung cấp, cho mượn hoặc bán,
đều thuộc trách nhiệm trực tiếp của nhà vua, và chính phủ Nam
triều sau vụ bạo hành tháng 7.1885 (tức ngày 24.5 năm Ất dậu - ngày
thất thủ kinh thành Huế), nay chỉ còn cách thần phục nước Pháp. Xứ
Trung kỳ mà ngài vừa ban cho nền tự trị sẽ phải bắt buộc ở dưới sự giám
hộ của người bảo hộ nó”.
Để P. Bert yên tâm Trương mách: “Bọn phiến loạn (nghĩa quân Cần
vương) không đáng sợ; họ chỉ có những khí giới cổ lổ của chính quyền An
Nam và vài võ khí mới mua lại được của bọn buôn lậu Trung Hoa”.
Và kế hiến ấy đã tỏ ra hữu hiệu trong việc đàn áp, truy sát những
nghĩa sỹ Cần vương! Thật không quá đáng khi người Huế bấy giờ coi
Trương Vĩnh Ký là con người phản phúc! Nhà sử học Chailley đã nhận
định: “P. Bert dùng Trương Vĩnh Ký không phải ở tài năng của ông này,
cũng không phải vì ông là người Thiên chúa giáo, mà chỉ vì những công
tác đã thể hiện rất được việc và nhất là sự trung thành kiên định của
Trương đối với nước Pháp”. Trong khi Trương Vĩnh Ký hăng hái bộc lộ
ruột gan ra với quân cướp nước thì với đồng bào mình, ông ta viện dẫn
câu cách ngôn La tinh “Ở với họ mà không theo họ” (Sic vos non vobis)!
Xin hãy đọc mấy dòng mà các quan thuộc địa đánh giá: “Rút cục, đó
là người An Nam Pháp hóa và gương mẫu duy nhất mà chúng ta có. Sự trợ
giúp của ông thật rất ích lợi cho ảnh hưởng của chúng ta và cho nền
học chính nói chung” (Luro - thanh tra, giám đốc trường sư phạm thuộc địa Pháp ở Việt Nam).
6/ Trời bất dung gian:
Thế rồi P. Bert đột ngột chết bởi ác bệnh vùng nhiệt đới. Chính sách
của y không hợp với giới cầm quyền mới sang thay. Ngay cả triều đình An
Nam dù lệ thuộc song cũng chẳng ưa gì viên đại quan cậy quyền ỷ thế
ngạo mạn hãnh tiến với cái vốn tây học mà tỏ ý khinh thị nền học vấn cổ
lỗ phương Đông. Trương trở nên lạc lõng giữa những ông chủ mới và quan
lại Nam triều. Quả báo nhãn tiền, trước hết là “những cú đá của con
la” từ các ông chủ thực dân dành cho viên đại quan Cơ mật viện mà chính
họ từng cài vào, trong khi đó các quan lại Nam triều coi ông là người
nguy hiểm. Trương cũng nhận ra: “Trong con mắt của đồng bào tôi, tôi đã bị lên án nặng nề”!
Một con người đa tài đang gặp “hội phong vân” mà bị cú vấp đau như vậy
thì sinh ra buồn bã, chán nản hẳn là tất nhiên. Trương nại lý do xin
về Sài Gòn để dưỡng bệnh, nhưng vẫn không quên hứa: “Khi trở lại đời
sống tư, lòng tôi luôn luôn thuộc về nước Pháp, và những công việc phục
vụ nhỏ mọn của tôi cũng thuộc về nước Pháp… Người bề tôi tận tâm và
vâng lời”.
Nhiều nhà nghiên cứu đều chung nhận định với ông Mẫn Quốc: “Cái học
vấn của Trương càng uyên bác bao nhiêu thì cái tác hại của Trương càng
lớn bấy nhiêu, Trương đã tác động tinh thần đám quan lại và đám sĩ phu
Việt Nam hãy đừng cưỡng lại người Pháp, nhằm mục đích gì? Đã bao phen
Trương tận tụy trung thành, đem hết tâm tư, bầy mưu lập kế, hiến sách
lược nọ, dâng đề nghị kia, chỉ vì giặc Pháp… Chúng tôi đặt ra câu hỏi:
vì cớ gì mà Trương lại phản quốc, lại làm đặc vụ, tay sai, tình báo cho
địch như vậy? Đọc những gì được trích dẫn, không khó nhận ra Trương
Vĩnh Ký rất nóng lòng muốn Pháp đồng hóa dân tộc Việt Nam nhanh hơn,
toàn diện hơn. Ngoài lương bổng hậu hĩnh, bên cạnh đó ông cũng sẽ kiếm
được lợi nhuận do việc chính phủ thực dân Pháp bỏ tiền tài trợ và mua
sách, ông sẽ phấn khởi, hăng hái hơn trong việc viết thêm các tác phẩm
khác trong tương lai cho mục đích “đồng hóa” nói trên”.
Một người tài hoa như thế, mưu mô như thế, hãnh tiến như thế mà sao
trước lúc lâm chung lại trong tâm trạng bất an, soạn sẵn câu trích
trong kinh cựu ước (Job 19:21) nói về Job bị Thượng đế và loài người
lìa bỏ, ghi trên mộ chí:
“Miseremini Mei Saltem vos Amici Mei”
(Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi)
Cổ nhân có câu: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Người hiền để
cho cái tâm làm sáng cái tài, chẳng như phường giá áo túi cơm để cho
cái tài làm tối cái tâm. Giới học giả, văn nhân thế giới không xa lạ
tên tuổi Paul de Man - nhà văn, triết gia, nhà tư tưởng nổi tiếng người
Đức giữa thế kỷ XX, nhưng khi bị phát hiện từng cộng tác với chính
quyền Quốc xã bài Do Thái, ông và toàn bộ sự nghiệp bị đắm đò! Một nhà
hoạt động xã hội nổi tiếng những năm 1950 - 1960 là K. Vanheim, từng là
Tổng thư ký LHQ, mãn nhiệm kỳ hai khóa, về nước, ông ra ứng cử chức
Tổng thống Áo, bị lật tẩy từng theo đuôi quân phát-xít, liền thân bại
danh liệt ngay từ đấy.
Trong bài viết, tác giả Đinh Hữu Quang trích dẫn lời danh nhân Hoàng Bình Trọng: “Lấy Văn làm Đạo, lấy Đạo làm Văn/ Văn tải Đạo cảm hóa Trời Đất”.
Thiết nghĩ với vị đại học giả họ Trương, Văn với Đạo không thuận với
nhau và nhận xét của vị học giả đồng hương Ca Văn Thỉnh: “Nhân tài thất đức thờ bạo chúa” là rất đúng?!
Người viết chia sẻ với suy nghĩ của nhà giáo lão thành Trần Thanh Đạm:
“Phản bội, phản quốc là tội danh chẳng kẻ náo dám nhận. Càng là
người có học vấn, có tri thức mà sa vào con đường ấy thì càng có nhiều
luận điệu bào chữa xảo trá, tinh vi. Đối với những nhân vật này lúc
đương thời thì ranh giới phải trái thường khá rõ ràng. Song về sau do
nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là với những người cùng não trạng, sự
đánh giá có khi lại trở nên phức tạp, rối rắm, gây nhiều tranh cãi. Như
con người này, vào thời buổi ấy, với tài năng ấy, thân phận ấy, tâm tư
ấy, để lại cho đời sau nhiều bài học. Như một tấm gương để tôn vinh
cảm phục thì không, song để cảm thông xót thương thì có”...
Nguyễn Văn Thịnh
Những ngày đầy xuân Bính Thân 2016
Tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh
Số 393 Thứ năm ngày 17 tháng 3 năm 2016
Tư liệu trong bài viết được dùng theo:
- Thư của nhà giáo lão thành Nguyễn Thái An
- Trương Vĩnh Ký, cuốn sổ bình sinh
(Nguyễn Sinh Duy – NXB Nam Sơn –Sài Gòn – Tháng 3/1975).
- Pétrus Ký từ những nhận thức khác nhau (Nhiều tác giả – Giao điểm 2002)
- Petrus Trương Vĩnh Ký tuyển tập của Lê Trọng Văn
- Bài lấy trên Sachhiem.net của Trần Chung Ngọc, Bùi Kha, Vũ Ngự Chiêu:
Nguồn: Bản MS-Word do tác giả gửi
___________________
Bài đọc thêm:
____________________
Các bài của Nguyễn Văn Thịnh: link http://sachhiem.net/VANHOC/N/ListNVTh.inc.php
Các bài của tác giả Nguyễn văn Thịnh
Đừng Gieo Rắc Tai Họa Vào Lịch SửBS Nguyễn Văn Thịnh
Đổi Mới Sử Học Không Có Nghĩa Là Tô Đen Thành Trắng BS. Nguyễn Văn Thịnh
Đọc Cuốn Tiểu Thuyết “HỘI THỀ”!Nguyễn Văn Thịnh
Bàn Tay Không Che Nổi Mặt TrờiBS. Nguyễn Văn Thịnh
Cái Đèn Cù Trần ĐĩnhBS. Nguyễn Văn Thịnh
Cụ Đồ Chiểu Có Làm Thơ Khóc Thương Phan Thanh Giản?BS. Nguyễn Văn Thịnh
Cảm Xúc Tháng Tư - Hòa Bình: Máu Và Nước MắtBS. Nguyễn Văn Thịnh
Kẻ Cướp Khôn Ranh, Người Ngay Khôn KhéoNguyễn Văn Thịnh
Kẻ Láng Giềng Bất Hảo!BS. Nguyễn Văn Thịnh
Lang Tử Dã Tâm!Nguyễn Văn Thịnh
Lại Gạ Dựng Tượng Ông Đắc Lộ Nguyễn Văn Thịnh
Lại Nói Chuyện Lịch Sử - Từ "Tích Hợp" Đế Sang "Ngọn Đuốc"?BS. Nguyễn Văn Thịnh
Nên Chăng Cần Có Một Ủy Ban Bảo Vệ Lịch Sử Việt Nam?BS. Nguyễn Văn Thịnh
Nhận Diện Người Trí ThứcNguyễn Văn Thịnh
Về Con Người Trương Vĩnh KýBS Nguyễn Văn Thịnh
No comments:
Post a Comment