2017/02/27

ĐỪNG MƯỢN DANH KHOA HỌC ĐỂ ĐÁNH TRÁO LỊCH SỬ

Tâm Minh Nguyễn


Sáng 22-2-2017 tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức buổi thông tin khoa học “Một số thành tựu mới trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam” do Giáo sư-Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê - Chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, trình bày. Xin nhớ đây chỉ là một buổi báo cáo “Thông tin khoa học”. Nó không phải là một cuộc tọa đàm, một cuộc hội thảo, càng không phải là một hội nghị khoa học để ở đó, người ta có thể nêu lên những kết luận.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê (Nguồn: Internet). 

Về ý kiến của Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê, báo chí đưa tin rất loạn xạ, hàng chục tờ báo điện tử đã đăng nhiều bài và ầu như chỉ có một cái tít giống nhau: “Giáo sư Phan Huy Lê đề nghị công nhận công lao của nhà Nguyễn”. Họ giật tít như vậy cũng có lý do, bởi trong buổi thông tin khoa học này, ông Phan Huy Lê đã nói: “Một trong những công lao rất lớn của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn là mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước, khai phá đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1757, nhà Nguyễn đã định hình được lãnh thổ VN mà về cơ bản gần giống như lãnh thổ VN hiện nay từ phía Bắc vào Cà Mau, từ Tây Nguyên ra biển, bao gồm cả vùng biển, các đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Nhà Nguyễn có công rất lớn trong việc hình thành và định hình một nhà nước thống nhất và xác lập lãnh thổ - không gian sinh tồn của nước Việt Nam. Công lao nhà Nguyễn về phương diện này không thể chối cãi. Đã đến lúc cần nhìn rõ công, tội của nhà Nguyễn”.
Vậy thực hư của vấn đề ra sao ?
1- Chúa Nguyễn, Vua Nguyễn và Nhà/Triều Nguyễn - Phải rạch ròi khái niệm:

Ai cũng biết rằng trong lịch sử Việt Nam, Nhà Nguyễn chỉ là một vương triều phong kiến hoàn chỉnh, có toàn vẹn lãnh thổ, có hệ thống chính trị của mình cai trị trên toàn bộ lãnh thổ ấy, có địa vị nhà nước thống nhất và duy nhất để bang giao với nước ngoài kể từ năm 1802, khi Nguyễn Ánh hoàn thành việc lật đổ Nhà Tây Sơn, triều đại đã trị vì trước đó để lên nắm quyền cai trị Đại Việt.

Còn trước thời điểm ấy, Nhà Tây Sơn, bằng cách dựa vào ý chí của nhân dân, huy động sức mạnh của toàn dân, trong 16 năm (1771-1787) đã lần lượt đánh dẹp các thế lực phong kiến cát cứ ở Đàng Ngoài (Vua Lê – Chúa Trịnh) và Đàng Trong (Chúa Nguyễn), thu giang sơn Việt Nam về một mối, đất nước thoát khỏi cảnh bị chia cắt Bắc – Nam trong suốt 148 năm (1627 – 1775). Trong thời gian 148 năm chia cắt Đàng Ngoài – Đàng Trong ấy, các thế lực phong kiến họ Trịnh (Đàng Ngoài) và họ Nguyễn (Đàng Trong) đã gây ra 8 cuộc nội chiến lớn và hàng trăm cuộc xung đột vũ trang nhỏ. Có những cuộc chiến kéo dài hàng chục năm. Cuộc chiến Trịnh – Nguyễn đã làm hao tổn không biết bao nhiêu sức người, sức của của nhân dân, triệt phá hàng loạt đồng ruộng, xóm làng.

Trong quá trình xây dựng đất nước từ đống hoang tàn, đổ nát, hậu quả cuộc chiến kéo dài gần một thế kỷ rưỡi, nhà Tây Sơn còn hai lần đánh bại hai thế lực phong kiến hùng mạnh xâm lược Đại Việt là triều đình Xiêm La (Thái Lan) ở phía Nam và Nhà Thanh ở phía Bắc. Điểm đặc sắc là trong cả hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm do Nhà Tây Sơn tiến hành, quân xâm lược đều có sự tiếp tay của những kẻ phản dân, hại nước. Đó là Lê Chiêu Thống cầu viện giặc Thanh và Nguyễn Ánh cầu viện giặc Xiêm La.

Trong lập luận của mình, ông Phan Huy Lê đã đánh đồng các Chúa Nguyễn, một thế lực phong kiến cát cứ ở phía Nam mà người Việt Nam cũng như lịch sử Việt Nam chưa từng công nhận là một nhà nước hoàn chỉnh ngang hàng với một vương triều phong kiến với Nhà/Triều Nguyễn. Bởi vì về danh nghĩa, đứng trên cả hai thế lực phong kiến cát cứ này còn có Nhà Lê trung hưng, và cả hai thế lực này đều trương khẩu hiệu chính trị “Phò Lê”. Bằng việc này, ông Phan Huy Lê đã phủ nhận sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam, công nhận tính hợp pháp và hợp lý của việc chia cắt đất nước. Đó là sai lầm về đạo đức nghề nghiệp không thể tha thứ.

Điểm thứ hai là công lao mở cõi được quy cho cái gọi là “Nhà Nguyễn” mà theo ý của ông Phan Huy Lê, nó bao gồm cả các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn. Cho đến nay, công lao mở cõi về phương Nam là công của 9 đời Chúa Nguyễn. Công lao thống nhất đất nước, xóa bỏ sự chia cắt Đàng trong - Đàng ngoài là của Nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh chỉ tọa hưởng kỳ thành. Là một nhà sử học gạo cội, liệu ông Phan Huy Lê có thể phân biệt được đâu là các vua, đâu là các lãnh chúa phong kiến không ?

Với việc gộp cả 9 đời chúa Nguyễn có công mở mang bờ cõi với 13 đời vua Nguyễn, trong đó có đến 5 ông vua cắt đất cho giặc và cam tâm làm tay sai bán nước cho giặc, rước voi về giày mồ (Gia Long, Tự Đức, Đồng Kháng, Khải Định, Bảo Đại, riêng Bảo Đại bán nước 2 lần cho Nhật và cho Pháp); ông Phan Huy Lê đã “trộn phấn với vôi” để rửa mặt cho các triều đình của Gia Long, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định và Bảo Đại.

2- Ý thức về quyền dân tộc tự quyết.

Nếu chỉ xem qua những phát biểu của ông Phan Huy Lê tại buổi thông tin khoa học nói trên như báo chí đã đăng thì vẫn còn chung chung và chưa rõ ràng. Phải tìm đến những phát biểu của ông ấy trước đây 9 năm, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Khánh Linh của báo Vietnamnet, chúng ta mới thấy rõ những ẩn ý của ông ấy. Trong cuộc phỏng vấn, khi được phóng viên hỏi: “Còn những hạn chế của vương triều Nguyễn thì sao, thưa GS? Nguyễn Ánh có tội hay không, khi đưa quân Xiêm vào để chống lại nhà Tây Sơn ? Hay vua Tự Đức có bán nước ?”; ông Phan Huy Lê đã trả lời:

- “Đúng là trong cuộc đấu tranh chống Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đưa quân Xiêm vào. Trước đây có quan điểm cực đoan gọi đây là hành động "cõng rắn cắn gà nhà", là "bán nước". Đúng là không thể biện hộ cho hành động "không sáng" này, cũng có thể coi là một tì vết trong sự nghiệp của Nguyễn Ánh, nhưng phải nhìn nhận công bằng. Trong những cuộc đấu tranh bên trong quyết liệt, việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra trong lịch sử. Nhưng điều quan trọng nhất là người cầu ngoại viện phải giữ được độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa lại lợi ích cho đất nước, còn nếu cầu ngoại viện mà bất lực để mất nước thì có tội lớn”. (bài báo đó vẫn còn đây: http://vietnamnet.vn/vanhoa/2008/10/808823/).

Đúng là tận cùng của sự lắt léo. Ông ấy biện hộ rằng: “Trong những cuộc đấu tranh bên trong quyết liệt, việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra trong lịch sử”. Vậy, ông Phan Huy Lê có thể dùng lập luận này để biện hộ cho việc Trần Ích Tắc cầu viện giặc Nguyên vào xâm lược nước ta không ? Liệu ông có thể dùng lập luận này để biện hộ cho Trần Thiêm Bình cầu viện giặc Nhà Minh vào xâm lược nước ta và gây ra thảm cảnh: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” không ? Liệu ông có thể dùng lập luận ấy để biện hộ cho hành động cầu viện giặc Thanh vào xâm lược miền Bắc nước ta của Lê Chiêu Thống không ? Và ông có thể dung lập luận ấy đê biện hộ cho Bảo Đại cộng tác với giặc Pháp xâm lược đất nước ta một lần nữa không ? Ông có thể dùng lập luận ấy để biện hộ cho việc Nguyễn Văn Thiệu kêu gọi Mỹ hãy đem B-52 ném bom cho tan nát Hà Nội vào cuối năm 1972 được không ?

Cuộc chiến của Nguyễn Ánh chống lại Nhà Tây Sơn và đưa ông ta lên cầm quyền vào năm 1802 thực chất là một cuộc chiến tranh phản cách mạng với sự trợ giúp về tiền bạc, vũ khí và cả cố vấn quân sự của thực dân Pháp. Về bản chất, sự trợ giúp của người Pháp cho Nguyễn Ánh là sự can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, vi phạm thô bạo chủ quyền của Việt Nam (và sau này là lãnh thổ Việt Nam). Vậy mà ông Phan Huy Lê bảo rằng “Trong những cuộc đấu tranh bên trong quyết liệt, việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra trong lịch sử”. Vậy thì ý thức về độc lập, chủ quyền của người Việt ở chỗ nào trong con người ông Phan Huy Lê ? Vậy thì nhận thức về quyền tự quyết dân tộc của ông Phan Huy Lê ở đâu ?

3- Ai đã không công nhận công lao của các chúa Nguyễn ?

Điều nực cười là trong buổi thông tin khoa học do Ban Tuyên giáo TW tổ chức vừa qua, ông Phan Huy Lê lại nhắc lại một lần nữa ý kiến của ông ta trong Hội thảo về nhà Nguyễn tổ chức tại Thanh Hóa năm 2008 rằng: “Cần ghi nhận cả về mặt công tích lẫn những hạn chế về thời kỳ Chúa Nguyễn và Vua Nguyễn”. Lưu ý là ở Hội thảo 2008, ông Lê còn phân biệt Chúa Nguyễn và Vua Nguyễn. Còn ở buổi thông tin khoa học vừa qua thì ông ta đã dấn thêm một bước, gọi cả hai là “Nhà Nguyễn”.

Ô hay ? Lịch sử Việt Nam cho đến nay, có tác phẩm nào là không ghi công tích mở mang bờ cõi cho đất nước ta, phát triển kinh tế Đàng Trong của các chúa Nguyễn đâu nhỉ ? Tôi xin dẫn ra đây mấy đoạn ở trang 333 trong cuốn “Lịch sử Việt Nam – Tập 1” do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 1971:

“Đàng Trong là đất mới khai phá, kinh tế công thương chưa trải qua quá trình lâu dài như ở Đàng Ngoài. Tuy vậy, vào thế kỷ thứ XVII – XVIII, nền kinh tế đó đã phát triển khá mạnh mẽ và đạt trình đọ không kém gì Đàng Ngoài. Thuận Hóa, Quảng Nam là nơi tập trung nhiều làng và phương thủ công có tiếng như nghề dệt, gốm, nấu đường, rèn sắt, đúc đồng… Nghề khai mỏ sắt, mỏ vàng ở miền núi Quảng Nam cũng khá phát đạt.
Quan hệ hàng hóa-tiền tệ phát triển có tác dụng mở rộng thị trường địa phương. Rất nhiều hội chợ mọc lên khắp nơi. Một số thành thị, thương cảng phát triển. Hội An là thương cảng lớn nhất có quan hệ kinh tế với nhiều vùng… Lúa gạo ở Gia Định được chở ra bán ở Thuận Hóa và Đồng Nai và hàng thủ công từ Thuận Hóa lại được buôn vào Gia Định…”

Bản thân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam khi nói về vai trò, vị trí, về công và tội của các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn cũng rất công tâm, công bằng, không thiên vị. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với lịch sử là rất sòng phẳng, phân minh. Người không hề công kích các chúa Nguyễn. Cùng với việc kịch liệt phê phán Gia Long và Tự Đức, Người đã từng viết bài trên báo chí nước ngoài để đề cao tinh thần yêu nước của 3 ông vua thứ 8, thứ 10 và thứ 11 của vương triều nhà Nguyễn là Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.

Trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12-7-1940, Nguyễn Ái Quốc viết: ''Năm 1885 vua Hàm Nghi và năm 1916 vua Duy Tân đã đứng ra lãnh đạo chống Pháp''. Ngày 24-2-1920, Nguyễn Ái Quốc đã nhận được thư của Hoàng thân Vĩnh San (vua Duy Tân), gửi cho Chủ nhiệm báo L'Humanité về việc đòi độc lập cho Việt Nam. Trung tuần tháng 3/1920, Nguyễn Ái Quốc gặp hai đồng chí Maxele Cachin và Jan Longé và báo L'Humanité đã mời Nguyễn Ái Quốc đến trụ sở để bàn về vấn đề này.

Không chỉ Bác Hồ, trong thế kỷ XX, các đồng chí lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta (như Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp...) cũng đều đánh giá đúng về vương triều nhà Nguyễn, hoàn toàn nhất trí với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Không ai bài bác và bôi nhọ thanh danh các chúa Nguyễn. Cũng chẳng có ai phủ nhận sự đóng góp của triều nhà Nguyễn trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hoá và văn nghệ...

Vậy thì ông Phan Huy Lê và các đồ đệ của ông còn đòi hỏi cái gì nữa đây ?

4- Mượn danh khoa học để thực hiện “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử.

Việc mượn công lao của các chúa Nguyễn để “rửa mặt” cho Nguyễn Ánh và các vua Nguyễn như Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định và Bảo Đại thì dứt khoát là không thể được.

Sách “Lịch sử Việt Nam – Tập 1” do NXB Khoa học xã hội Việt Nam ấn hành năm 1971, trang 380 đã ghi rõ:

“Từ cuối thế kỷ XVIII, thực dân Pháp đã lợi dụng cuộc chiến tranh phản cách mạng của Nguyễn Ánh để can thiệp vào nước ta. Sau khi lên làm vua, Gia Long đã “trả ơn” bọn xâm lược bằng cách lưu dụng một số người Pháp làm quan lại trong triều và để cho giáo sĩ người Pháp tự do truyền đạo trong nước. Nhờ đó, bọn chúng đã vận động Gia Long lập Hoàng tử Cảnh, người chịu ảnh hưởng của Pháp làm thái tử. Số người Pháp làm quan trong triều giữ liên lạc với chính quyền Pháp. Chúng nhận nhiệm vụ vận động triều đình Huế ký những điều ước ngoại giao, thương mại có lợi cho chủ nghĩa tư bản Pháp. Đặc biệt, Hội truyền giáo nước ngoài và bọn gián điệp đội lốt tôn giáo nấp dưới chiêu bài truyền đạo càng đẩy mạnh hoạt động do thám và gây dựng cơ sở phản động trong nước ta… Bọn chúng điều tra tình hình mọi mặt của nước ta, âm mưu phá hoại khối đoàn kết dân tộc, chia rẽ lương – giáo”.

Có lẽ cần phải nhắc lại rằng ông Phan Huy Lê chính là một trong hơn 100 nhà sử học Việt Nam khi đó đã tham gia biên soạn bộ “Lịch sử Việt Nam” nói trên. Bản thân ông ta cũng có 2 tác phẩm viết riêng (các cuốn “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam – Tập II” và “Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ) cùng 2 tác phẩm viết chung (các cuốn “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam – Tập III” và “Khởi nghĩa Lam Sơn và phong trào giải phóng đất nước vào thế kỷ XV”) được dùng làm tài liệu tham khảo để biên soạn bộ sách trên. Thế mà nay, ông ta lại nói ngược lại. Thái độ không nhất quán trong khoa học ấy chỉ có thể gọi là chủ nghĩa xét lại lịch sử, là một thứ “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” trong khoa học lịch sử, tất yếu sẽ dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" về chính trị. Đây là điều mà các thế lực thù địch và phản động mong muốn.

9 năm trước đây, khi theo dõi cuộc Hội thảo về chúa Nguyễn và nhà Nguyễn được tổ chức với quy mô lớn tại tỉnh Thanh Hoá, được báo chí tuyên truyền rầm rộ, nhiều người dân ở thành phố Hồ Chí Minh đã ngạc nhiên. Họ phát biểu: ''Những câu: ''Gia Long cõng rắn cắn gà nhà'', “Rước voi về giày mả tổ'', ''Phan - Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”,...đâu phải đến thời bây giờ mới có và đâu phải chỉ lưu hành riêng ở miền Bắc. Nhớ khi còn ngồi trên ghế nhà trường tại thành phố này qua các bậc trung học và đại học, chúng tôi đã từng nghe các giáo sư dưới chế độ cũ khi bước lên bục, đều giảng như vậy cả. Thế nhưng không hiểu vì sao, hàng chục năm qua, một số người làm công tác nghiên cứu sử học ở miền Bắc lại tìm mọi cách để phản bác những câu nói đó ?”.

Giáo sư Trần Văn Giàu, một chiến sĩ cách mạng kiên trung, một nhà sử học lão thành, là bậc thầy của ông Phan Huy Lê, được cán bộ và nhân dân mến mộ, cũng đã giữ quan điểm đúng đắn trong việc đánh giá vương triều nhà Nguyễn. Chính vì lẽ ấy, giáo sư Trần Văn Giàu đã không đồng tình với tác giả cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về Phan Thanh Giản bằng lối văn hư cấu tuỳ tiện, thoát ly hiện thực lịch sử... Giáo sư Trần Văn Giàu đã tạ thế, Phan Huy Lê và các môn đệ của ông ta như được “dọn vật cản”, đã lấn thêm những bước mới.

Vào tháng 7 năm 2016, khi Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và truyền thong đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu, tác giả cuốn “Trương Vĩnh Ký – Nỗi oan thế kỷ” sửa lại tên cuốn sách này và một số đoạn viết cho trung thực, khách quan thì ông này kiên quyết khước từ. Những đoạn viết không trung thực, không khách quan về Trương Vĩnh Ký chính là việc tác giả đã đánh lộn sòng công và tội của Trương Vĩnh Ký, biến những hành vi đi ngược lại quyền lợi dân tộc của Trương Vĩnh Ký thành công lao. Kết quả là cuốn sách không được phép phát hành. Thế nhưng ông Phan Huy Lê vẫn lớn tiếng bênh vực cho cuốn sách này qua lời giới thiệu của mình.

Về cuốn sách nói trên, tạp chí mạng “Tôn giáo và dân tộc” đã thẳng thừng đặt câu hỏi: “Trương Vĩnh Ký phản bội Tổ quốc, sao gọi là nỗi oan thế kỷ ?” Với nhiều tài liệu, chứng cứ xác đáng được dẫn ra, tác giả Bùi Kha đã vạch rõ: “Với những chứng cớ quá rõ ràng qua các văn thư do chính Trương Vĩnh Ký và các viên chức cao cấp thực dân Pháp viết, chúng ta có thể kết luận dứt khoát rằng Trương Vĩnh Ký là một người phản bội Tổ quốc. Ông không có một mảy may công lao nào đối với dân tộc, ngược lại, ông hoàn toàn là kẻ có tội. Từ những ý đồ và hành động chính trị, cho đến các công trình mang tính văn hóa nói chung của họ Trương, tất cả chỉ xoáy vào một mục đích duy nhất là phục vụ cho chính sách của thực dân Pháp để nô lệ hóa và đồng hóa dân tộc ta.”

Vào tháng 10 năm 2009, trên tạp chí “Xưa và Nay”, ông Phan Huy Lê còn phủ nhận sự kiện liệt sĩ Lê Văn Tám tẩm xăng vào thân mình để đốt kho xăng Thị Nghè của thực dân Pháp. Chứng cứ duy nhất mà ông ta bảo rằng mình có là lời dặn của giáo sư Trần Huy Liệu nhưng ông ta lại không đưa ra được một bằng chứng xác thực nào. Thiết nghĩ, việc ông Phan Huy Lê dẫn ra lời dặn ấy chẳng khác gì Trương Huy San “nhét chữ vào miệng” một anh chàng Hàn Quốc nào đó bảo rằng: “Tao không nghĩ là chúng mày đã đánh đuổi hai đế quốc lớn mà chúng mày đã đánh đuổi hai nền văn minh lớn của thế giới” để rồi từ đó, biện hộ cho những lập luận sai lầm của mình.

Một trong những sai lầm trong đánh giá của ông Phan Huy Lê về quá trình nghiên cứu lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến nay là ông ta cho rằng có “Quan điểm chính thống”. Đây là một sự bịa đặt. Bởi đối với khoa học thì không bao giờ có cái gọi là “quan điểm chính thống” và “quan điểm không chính thống”. Đảng Cộng sản Việt Nam không bao giờ đặt vấn đề “quan điểm chính thống” đối với khoa học trong tất cả các văn kiện của mình. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử học thống nhất với nguyên tắc chép sử vốn có từ xưa là:

1) “Có gì thì viết nấy – không có thì không viết”.
2) “Thiếu thì viết thêm cho đủ - không viết thừa”
3) “Sai thì viết lại cho đúng – không bịa đặt”.
4) “Viết sử phải khách quan, có minh chứng – không viết lung tung”.
5) “Bình luận, đánh giá lịch sử phải có căn cứ xác đáng – không phán xét bừa bãi”.

Mặc dù ông Phan Huy Lê là một trong những người đấu tranh đến cùng để giữ lại môn Lịch sử là một môn học độc lập trong các chương trình dạy học phổ thong; nhưng càng ngày, càng lộ rõ rằng ông ấy muốn giữ lại lịch sử nào. Với cái mạch tư duy kiểu như của ông Phan Huy Lê và một số người muốn xét lại lịch sử hay nói đúng hơn là lật đổ lịch sử, người ta sẽ công nhận việc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là chuyện đương nhiên đúng đắn, sẽ công nhân việc đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam là chuyện đương nhiên đúng dắn, sẽ công nhận việc chia cắt Miền Bắc, Miền Nam sau Hiệp định ngừng bắn Geneve là chuyện tất - lẽ - dĩ - ngẫu. Và sau đó, sẽ là việc thừa nhận chính quyền ngụy Sài Gòn là hợp pháp; sẽ là phủ nhận toàn bộ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Từ đó, dẫn đến việc phủ nhận chế độ chính trị hiện nay ở Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những lập luận của ông Phan Huy Lê sẽ được bọn phản động sử dụng để biện hộ cho luận điệu của tay văn sĩ bồi bút Trương Huy San (tức Huy Đức, tức San Hô) trong cái gọi là tác phẩm "Bên thắng cuộc" của anh ta. Là một nhà khoa học, ông Phan Huy Lê có cảm thấy mình có trách nhiệm gì với dân tộc, với đất nước không khi ông tung ra một vấn đề rất hệ trọng mà lại có lối nói nước đôi, không nhất quán như thế ?

Nếu những vấn đề trên đây không được giải quyết rốt ráo, sẽ dẫn đến sự rối loạn về nhận thức trong xã hội. Thật vậy ! Trong việc đánh giá vương triều nhà Nguyễn, hàng chục triệu nhân dân ta - nhất là một khối lượng rất lớn học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh đang ngồi học tập và viết luận án khoa học trên ghế nhà trường sẽ nghe và viết theo quan điểm của ai ? Nghe và viết theo sự chỉ dẫn của tư tưởng Hồ Chí Minh, theo quan điểm sử học của Đảng ta, hay nghe và viết theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu lịch sử đã và đang được công khai quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong buổi thông tin khoa học do Ban Tuyên giáo trung ương vừa tổ chức, trong cuộc hội thảo năm 2008 tại tỉnh Thanh Hoá và trong những cuộc hội thảo trước đó.

Chúng ta đặc biệt quan tâm đến chủ trương của Hội Khoa học lịch sử về việc gấp rút tiến hành chỉnh sửa sách giáo khoa phổ thông về sử học và chuẩn bị biên soạn bộ Quốc sử mới, như báo chí đã nhất loạt đưa tin. Đây là nhiệm vụ cực kỳ hệ trọng. Chúng ta hoàn toàn không yên tâm nếu như nhiệm vụ này được giao trọn gói cho những người đã từng đi chệch chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về sử học và đã nặng lời công kích “Phương pháp luận sử học mác-xít là ấu trĩ, giáo điều, công thức''. Vậy thì thử hỏi, nếu giao cho họ chỉnh sửa sách giáo khoa sử học và biên soạn bộ Quốc sử của nước nhà, họ sẽ đứng trên quan điểm lập trường nào và theo phương pháp luận sử học của ai ? Điều đó chắc chắn sẽ gây ra cho chúng ta những tổn thất không nhỏ trong lĩnh vực công tác giáo dục, cũng như trên địa hạt tư tưởng.

Sử học là một trong những lĩnh vực hoạt động hết sức nhạy cảm và có tầm quan trọng sống còn trên mặt trận tư tưởng. Nếu chúng ta không quan tâm chăm lo củng cố sự vững mạnh của ngành sử học kể cả trên ba mặt: về chính trị, về tư tưởng và về tổ chức, ắt sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường. Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng một trong những nguyên nhân làm cho Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ là những nhà lãnh đạo các Đảng Cộng sản và Công nhân cầm quyền ở những nước đó đã mất cảnh giác, đã bị tên gián điệp Aleksandre Yakovlev, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thao túng, đã để cho chủ nghĩa xét lại lịch sử hoành hành. Kết quả là chế độ xã hội chủ nghĩa ở những nước đó bị lật đổ trước hết là về lịch sử và sau đó là về chính trị.

No comments:

Post a Comment