2016/12/07

KHÔNG CHẤP NHẬN TỰ DO TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG VÔ CHÍNH PHỦ

Dự luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV chính thức thông qua ở kỳ họp thứ 2 diễn ra từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 23 tháng 11 năm 2016. Mục đích, ý nghĩa, tính nhân văn của việc làm ấy được thể hiện rất rõ ràng, nội dung đầy đủ thể hiện sự quan tâm đến tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thế nhưng ngay sau đó, trên một vài trang mạng đã xuất hiện những luận điệu sai trái hòng xuyên tạc việc làm ấy của Quốc hội Việt Nam. Họ nói rằng, “ở các nước văn minh, người ta không bao giờ ra Luật tín ngưỡng, tôn giáo” và rằng: Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam “không nhằm phục vụ nhân quyền mà chỉ để phục vụ cho sự cai trị của Đảng Cộng sản...”. Những nhân vật đưa ra các luận điệu ấy chứng tỏ họ chẳng hiểu gì về tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.



Đầu tiên, cần phải khẳng định rằng, tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quốc tế công nhận là một trong những quyền cơ bản của con người. Điều này được thể hiện rõ trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (được Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16-12-1966). Điều 18 của Công ước đó ghi rõ: “1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ tín ngưỡng, tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo; 2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng; 3. Quyền tự do bày tỏ tín ngưỡng, tôn giáo chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác”.

Thứ hai, trên cơ sở Công ước quốc tế và điều kiện chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa truyền thống của mỗi quốc gia, các nước đều ban hành những quy định pháp lý để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân và quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của đất nước mình.
Ảnh minh họa


Ở nước Mỹ, trong hệ thống luật pháp vẫn có các quy định để duy trì các tôn giáo hoạt động đúng nguyên tắc. Chẳng hạn, trong Hiến pháp Hoa Kỳ có quy định: Nghiêm cấm việc thiết lập một tôn giáo nhà nước chính thức cũng như cấm chính phủ trợ giúp cho các nhóm tôn giáo... Tương tự ở Pháp, đạo luật ngày 9-12-1905 của Pháp ghi rõ: “Nền Cộng hòa bảo đảm quyền tự do lương tâm, bảo đảm quyền tự do thực hành các việc thờ phụng với những hạn chế duy nhất được ban bố... vì lợi ích trật tự công cộng” (Điều 1). Tại Điều 25 của đạo luật trên cũng ghi: “Các cuộc hội họp để cử hành một việc thờ phụng được điều hành trong những trụ sở thuộc một hiệp hội tôn giáo... là công cộng. Chúng được đặt dưới sự giám sát của nhà chức trách vì lợi ích của trật tự công cộng”…. Ở Trung Quốc, để quản lý các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước Trung quốc cũng đã ban hành nhiều văn bản luật như Nghị định 145 ngày 31-1-1994 của chính phủ nước này quy định: “Các nơi hoạt động tôn giáo phải đăng ký theo thể thức do Cục Tôn giáo Quốc gia ấn định. Các nơi đó không thể do người nước ngoài điều khiển. …. Tiền bạc do người nước ngoài tặng hoặc dâng cúng phải được tiếp nhận theo luật pháp quốc gia…”.     

Như vậy có thể thấy hoàn toàn không có chuyện “ở các nước văn minh, người ta không bao giờ ra Luật tín ngưỡng, tôn giáo” như giọng điệu mà các thế lực thù địch đang rao rảng trên các trang mạng.

Thứ ba, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân luôn được Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam quan tâm, bảo đảm; sự ra đời của luật tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tất yếu, là việc cụ thể hóa sự quan tâm đó đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

Trong lịch sử xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được khẳng định là một trong những quyền cơ bản của con người. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại Điều 10, Chương 2, nêu rõ: “Mọi công dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Trong Hiến pháp năm 1959, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân tiếp tục được Nhà nước Việt Nam tái khẳng định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân tiếp tục được khẳng định, bổ sung trong các bản Hiến pháp sau đó của Nhà nước Việt Nam như Hiến pháp năm 1980 (Điều 80), Hiến pháp năm 1992 (Điều 70), và mới nhất là bản Hiến pháp năm 2013.

Luật tín ngưỡng, tôn giáo vừa được Quốc hội thông qua đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng và Hiến pháp năm 2013, nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện hành; bảo đảm hơn nữa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; tạo điều kiện để quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như các giá trị dân chủ, văn minh của loài người và CNXH được phát huy; giữ vững niềm tin của người có tín ngưỡng, tôn giáo vào chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; góp phần thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Nhà nước; thể hiện trách nhiệm của Việt Nam đối với việc thực hiện pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên.

 Sự ra đời của Luật tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là phù hợp với Công ước quốc tế và thực tiễn đất nước; bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người ở Việt Nam. Những ai cho rằng dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo mà Quốc hội Việt Nam vừa thông qua “không nhằm phục vụ nhân quyền...” là một sự xuyên tạc trắng trợn, sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam và là hành động không thể chấp nhận được.


NVM (chiasekienthucnet)

No comments:

Post a Comment