2016/09/04

VỀ BẢN GÓP Ý DỰ LUẬT TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA BTV HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM


Theo tin từ trang Người Công Giáo, sau khi nhận được Văn thư số 22 / UBVHGDTTN14 của Ủy Ban Văn Hóa, Giáo Dục, Thanh Niên, Thiếu Niên và Nhi Đồng, Quốc Hội Khóa XIV về việc đề nghị góp ý cho Dự thảo 17.8.2016 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo". Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tổ chức góp ý rộng rãi, công khai và ngày 26 tháng 8 năm 2016 đã gửi lại bản góp ý theo thời gian được hạn định. 
Biểu tượng của Hội đồng Giám mục Việt Nam (Nguồn: Internet). 

Kết cấu bản góp ý được chia thành 03 phần khá rõ ràng: Phần 1: Những điểm tích cực; Phần 2: Những đề nghị; Phần 3: Những điều cần được quan tâm. 

Trước khi đi vào nói đôi điều xung quanh bản góp ý mới đây nhất của Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam, xin được trích nguyên văn phần I: Những điểm tích cực của DỰ thảo 17.8.2016 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo theo nhìn nhận của Hội đồng Giám mục Việt Nam để thấy rằng, cơ quan soạn thảo dự luật hết sức nghiêm túc trong việc tổ chức lấy ý kiến và tiếp thu, chỉnh sửa những ý kiến gửi đến sao cho phù hợp và khách quan nhất! 
"So với Dự thảo 4, chúng tôi nhận thấy Dự thảo lần này (17/8/2016) có những tiến bộ đáng khích lệ. Cụ thể là:
1. Công nhận tư cách “pháp nhân phi thương mại” của các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Điều 30).
2. Bớt đi từ “đăng ký” và thay bằng từ “thông báo” hoặc “đề nghị”, ví dụ tại điều 33A: “Tổ chức tôn giáo sau khi thực hiện việc phong chức, phong phẩm….thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước”. Vấn đề không chỉ là thay đổi từ ngữ nhưng còn là thay đổi cách nhìn và cách làm việc, thoát khỏi cơ chế xin-cho. Tự do tôn giáo là quyền căn bản của con người chứ không phải là ân huệ để xin và cho. Khi Nhà nước đã công nhận một tổ chức tôn giáo thì cũng phải tôn trọng họ và những sinh hoạt của họ.
3. So với Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo 21/2004, dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có nêu quyền khiếu nại, khởi kiện, tố cáo về tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 62).
4. Các tổ chức tôn giáo “được thành lập cơ sở giáo dục theo hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 53). Chúng tôi hiểu việc thành lập cơ sở giáo dục này là ở mọi cấp: mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học. Cũng thế, tổ chức tôn giáo “được thành lập cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội” (Điều 54). Đây là những quy định đúng đắn, thoát ra khỏi thái độ phân biệt đối xử trong cộng đồng dân tộc, đồng thời mở ra cơ hội cho các tổ chức tôn giáo tham gia vào lãnh vực giáo dục và y tế, vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Sở dĩ còn có những điểm chưa hài lòng (dưới góc nhìn của một chủ thể) có thể bản thân nội dung góp ý đó mâu thuẫn, chưa nhận được sự đồng thuận với các tôn giáo, chủ thể góp ý khác. Và trong một chừng mực nhất định, ban soạn thảo sẽ phải tiếp thu sao cho dung hòa, đảm bảo lợi ích của các chủ thể liên quan! Đó cũng là lí do giải thích tại sao người viết không quá quan tâm tới nội dung Phần II: Những đề nghị. Việc tiếp thu, xem xét và chỉnh sửa dự luật một lần nữa thuộc trách nhiệm của Ban Dự thảo dự luật này. Xin được nói xung quanh 02 nội dung được nói đến trong Phần III: Những điều chưa được quan tâm để thấy rằng, ngay bản thân những người trong cuộc, chịu sự chi phối trực tiếp chưa chắc đã nắm vững những nội dung liên quan. Sự băn khoăn, chưa hài lòng của họ chủ yếu xuất phát từ việc họ chưa hiểu thực chất vấn đề và có cả những lí do khác! 

1. Về nội dung thứ nhất, bản góp ý của Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam cho rằng: "Điều 57 nói đến việc “cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, tôn giáo”. Chúng tôi hiểu đây là những cơ sở cũ, nay cần được cải tạo, nâng cấp, hoặc xây lại. Tuy nhiên Dự thảo không nói gì đến việc xây dựng những cơ sở thờ phượng tại những nơi mới. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, địa bàn dân cư có rất nhiều biến động. Có những nơi trước đây không có nhà thờ hoặc chùa chiền vì không có người Công giáo hoặc Phật giáo. Nhưng ngày nay, theo đà phát triển của xã hội, nhiều người Công giáo hoặc Phật giáo quy tụ về đó sinh sống và họ cần có nơi thờ phượng. Quốc hội nên quan tâm đến nhu cầu này của người dân và đưa ra những quy định cụ thể, ví dụ, khi một nơi có 50 hoặc 100 người cùng niềm tin tôn giáo thì được phép xây dựng nơi thờ phượng chung". 

Không hiểu ở đây có phải vì Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam không quen làm luật (dự thảo và ban hành các dự luật hoặc các hình thức tương tự trong khuôn khổ của giáo hội) hay họ chưa thực sự đọc, hiểu hết nội dung được chuyển tải trong dự luật được gửi đến. Cụ thể: Điều 57 của dự luật quy định khá rõ ràng 03 nội dung và được cách nhau bởi dấu phẩy: "cải tạo/ nâng cấp/ xây dựng mới công trình tín ngưỡng, tôn giáo”

Nghĩa là nội dung "xây dựng mới công trình tín ngưỡng, tôn giáo" hoàn toàn đứng độc lập và không liên quan đến 02 nội dung trước đó (Cải tạo, nâng cấp). Vậy nhưng, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam lại chỉ hiểu được rằng: "Chúng tôi hiểu đây là những cơ sở cũ, nay cần được cải tạo, nâng cấp, hoặc xây lại".Nội dung "xây dựng mới" được đề cập không hiểu sao không được đề cập???? 

Mặt khác, liên quan đến nội dung "xây dựng mới công trình tín ngưỡng, tôn giáo" đã có hẳn một điều luật cụ thể. Theo đó, việc xây dựng công trình tôn giáo mới chỉ diễn ra khi cơ quan có thẩm quyền về tín ngưỡng, tôn giáo cho thành lập mới cơ sở tôn giáo (căn cứ vào những điều kiện cụ thể). Nội dung: "Nhưng ngày nay, theo đà phát triển của xã hội, nhiều người Công giáo hoặc Phật giáo quy tụ về đó sinh sống và họ cần có nơi thờ phượng. Quốc hội nên quan tâm đến nhu cầu này của người dân và đưa ra những quy định cụ thể, ví dụ, khi một nơi có 50 hoặc 100 người cùng niềm tin tôn giáo thì được phép xây dựng nơi thờ phượng chung" chính là phản ánh nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo của người dân và là một trong những căn cứ có tính cơ bản để xem xét cho thành lập/ không thành lập hay có được/ không xây dựng mới công trình tôn giáo. 

Nội dung được chỉ ra cho thấy bản thân Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam chưa thực sự đầu tư hoặc họ đã trao gửi thẩm quyền góp ý vào những chủ thể chưa đủ khả năng để nhìn nhận, đánh giá và góp ý luật! 

2. Về nội dung thứ hai, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam cho rằng: "Hiện nay, khi muốn xây dựng nơi thờ phượng mới, các tổ chức tôn giáo phải mua đất rồi làm giấy giao miếng đất đó cho Nhà nước, rồi Nhà nước mới “cấp lại” cho tổ chức tôn giáo đó. Thiết nghĩ đây là một quy trình hết sức phi lý! Nếu Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo thì Quốc hội cần phải xem xét lại quy trình này và đưa ra hướng đi cụ thể"

Nội dung này có tính liên quan với nội dung thứ nhất ở trên, đều liên quan tới việc xây dựng cơ sở tôn giáo, thờ phượng mới của giáo hội các tôn giáo. Trên thực tế, đây là nội dung đã được đề cập đến trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 cũng như 02 Nghị định hướng dẫn (Nghị định 22 và Nghị định 92) của Chính phủ hướng dẫn thực thi chi tiết pháp lệnh. Theo đó, để được nhà nước cấp đất sử dụng vào mục đích tôn giáo (xây dựng cơ sở thờ tự), bản thân các tôn giáo phải thực hiện thủ tục trả lại diện tích đất đó (dù được mua và hay được hiến, tặng) và nhà nước sẽ tiến hành cấp lại. 

Sở dĩ có quy trình này xuất phát từ 2 lí do: 

Thứ nhất, hoạt động tôn giáo là một hoạt động có tính chất đặc thù, và do hoạt động tôn giáo cũng là một hoạt động nằm trong đời sống kinh tế xã hội nên nó luôn phải hài hòa, phù hợp với tổng thể đó. Nghĩa là quỹ đất dùng cho việc xây dựng cơ sở tôn giáo mới luôn phải đảm bảo với quy hoạch cũng như quyền lợi, phạm vi hoạt động của các lĩnh vực khác như hoạt động đầu tư, các thiết chế văn hóa - xã hội... Chính vì vậy, nếu Nhà nước (chủ thể quản lý chung) thả nổi, không đứng ra quản lý, điều hành thì có thể chính các cơ sở tôn giáo sẽ liên tục gia tăng quỹ đất, xây dựng các công trình tôn giáo lấn át các hoạt động khác của đời sống kinh tế - xã hội. Sự hài hòa cũng như đảm bảo công bằng xã hội với các chủ thể được pháp luật bảo hộ vì thế sẽ không được đảm bảo! 

Thứ hai, đúng như trong bản góp ý của Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đề cập, việc "Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo" là một nội dung đã có từ lâu, là một biểu hiện sinh động cho sự khách quan, đúng đắn trong chính sách tôn giáo nhiều năm nay. Tuy nhiên, công nhận tư cách pháp nhân không đồng nghĩa với việc Nhà nước xem Pháp nhân tôn giáo cũng như những pháp nhân khác. Bởi, không riêng gì chế độ xã hội đương thời tại Việt Nam, mọi chế độ đều có nhu cầu tự bảo vệ mình trước những nguy cơ, nhất là nguy cơ bị thay thế. 

Bản thân các tôn giáo nếu hoạt động theo đúng Hiến chương, điều lệ, thuần túy tôn giáo thì không hề đáng lo, song nếu nó bị biến tướng và lợi dụng thì đấy là điều đáng phải được quan tâm! Cho nên, dù công nhận các tổ chức tôn giáo là pháp nhân nhưng nó luôn là pháp nhân được đối xử theo một quy trình đặc biệt. Và thực tiễn các nước trên thế giới, ngay cả Mỹ cũng chưa bao giờ thả nổi, hay cho các tổ chức tôn giáo được tự do làm bất cứ điều gì; ở đó, đất đai tôn giáo cũng phải bị đánh thuế chứ không như Việt Nam. 

Với những gì đã được chỉ ra thì ở bản Dự thảo sắp tới 02 Nội dung "Chưa được quan tâm" này sẽ tiếp tục được duy trì. Và cuối cùng, xin được nói thêm với những ai quan tâm rằng: Bản thân các Bộ luật, Luật dù có tốt (khách quan, phù hợp) đến mấy thì ít nhiều nó đều phản ánh ý thức của chủ thể cầm quyền. Họ cho bạn quyền cũng có nghĩa họ đang mạo hiểm với mạng sống của chính mình. Vì thế, mọi thứ đều cần được nhìn nhận tương đối!

An Chiến

No comments:

Post a Comment