2016/02/17

37 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc

Mõ Làng
                                                                  Sơ đồ chiến sự
Cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc ở biên giới phía bắc của Việt Nam đến nay đã 37 năm. Sau bình thường hóa quan hệ, do nhiều lý do, hai nhà nước Việt Nam - Trung Quốc đã không công bố những thông tin cụ thể về nó. Những kẻ cơ hội chính trị đã lợi dụng khoét sâu vào vấn đề này với âm mưu kích động dân chúng. Sự thật là thế nào?
Những căn nguyên của vấn đề
Quan hệ Việt - Trung bắt đầu rạn nứt năm 1968 khi Việt Nam đồng thời giao hảo với cả Liên Xô và Trung Quốc, nhận viện trợ của cả hai nước để chống Mỹ trong bối cảnh mối quan hệ hai nước này xuất hiện nhiều xung đột căng thẳng. Trung Quốc đã đề nghị Việt Nam tham gia liên minh chống Liên Xô không nhận viện trợ của Liên Xô và họ sẽ đảm bảo thay. Song, Việt Nam đã không đồng ý.
Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới thăm Bắc Kinh và đạt được thỏa thuận riêng với Trung Quốc. Ngay sau đó, Mỹ đã mở chiến dịch hủy diệt Hà Nội bằng B52.
Tháng 5/1975, Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu, thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam, tàn sát hàng nghìn dân thường. Đứng sau viện trợ cho Khmer Đỏ về vũ khí, khí tài cũng như cố vấn quân sự là Trung Quốc. Tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa cũng nổi lên rõ hơn khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo.
Ngày 3/11/1978, Việt - Xô ký hiệp ước hữu nghị 25 năm - chính thức xác nhận Việt Nam đứng về phía Liên Xô. Gần 2 tháng sau, quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc quyết định dừng viện trợ, rút chuyên gia khỏi Việt Nam.
Từ đầu năm 1978 trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh mở chiến dịch tố cáo Việt Nam “bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa kiều”, gọi người Việt-gốc-Hoa là “nạn kiều”. “Bị tác động bởi chiến dịch cưỡng ép di cư của phía Trung Quốc người Hoa đã kéo nhau hàng loạt đi Trung Quốc một cách bất hợp pháp”. Họ ùn ùn kéo ra cửa khẩu Hữu Nghị Lạng Sơn gây nên cảnh hỗn loạn. 
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra tuyên bố: “Đảng và Chính phủ Việt Nam trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có một số bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn xấu tác động”. Đồng thời, gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu chấm dứt tuyên truyền kích động; đại diện hai nước gặp nhau để cùng nhau bàn bạc, giải quyết những bất đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam. Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị và đã tự quyết định đưa tàu thủy sang thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978 để đón người Hoa về nước. Tuy nhiên họ chỉ đón 2400 người để tạo cơn lũ người Hoa kéo đi rồi dừng hẳn.
Trước đó, thông qua bàn tay của Pôn Pốt trong chiến dịch bài xích người Việt ở Căm Pu Chia chúng đã đẩy khoảng 30.000 người Hoa chạy sang Việt Nam lánh nạn ở các tỉnh miền Tây.
Chính khách Việt Nam đã phải thốt lên rằng: "nếu họ thực tâm muốn chăm lo cho Hoa kiều, tại sao họ lại không lên tiếng đối với việc Hoa kiều bị bọn cầm quyền phản động Campuchia xua đuổi tàn ác, ngược đãi… Đáng lý những Hoa kiều họ cần phải rước trước hết là người Hoa đang sống đau khổ, tủi nhục dưới chế độ tàn bạo của bọn cầm quyền phản động Campuchia. Thái độ trái ngược của phía Trung Quốc không khỏi làm cho mọi người nghi ngờ việc họ tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực hiện một ý đồ khác. Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn cho Việt Nam mà thôi”. Mục đích của Trung Quốc là để tạo điều kiện cho Khơmer đỏ thực hiện âm mưu đánh chiếm miền Tây Việt Nam.
Tháng 1/1979, Việt Nam mở chiến dịch Tây Nam lật đổ chế độ diệt chủng Khmer đỏ thân Trung Quốc tại Campuchia, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học".
Chiến tranh xâm lược 30 ngày chống Việt Nam
Rạng sáng 17/ 2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200 km.
Dù từng tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới.
Thời điểm Trung Quốc tấn công, tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc bao gồm cả quân chính quy và dân quân địa phương chỉ có khoảng 50.000 quân. Trong khi đó, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn. Ước tính có đến 600.000 quân, gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.
Hướng mặt trận Lạng Sơn (chỉ cách Hà Nội 100km), các cánh quân lớn của Trung Quốc chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chất (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn). Dù bị bất ngờ song chỉ với lực lượng dân quân địa phương, Việt Nam đã quả cảm chặn đánh, ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày. Sau 10 ngày chiến đấu không đạt được mục tiêu, ngày 27/2, Trung Quốc tung thêm một quân đoàn nhằm vào thị xã Lạng Sơn dùng chiến thuật biển người hòng xâm chiếm các mục tiêu quan trọng. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt giữa 2 quân đoàn tăng cường của Trung Quốc và lực lượng vũ trang địa phương Việt Nam. Ở điểm cao 417, đoàn An Lão đã đánh bật hàng chục đợt tấn công, loại khỏi vòng chiến đấu trung đoàn 850 của Trung Quốc. Đặc biệt, ở khu vực cầu Khánh Khê trên đường 1B, chiến sĩ đoàn Tây Sơn đã kiên cường chặn đứng một sư đoàn quân và một tiểu đoàn xe tăng Trung Quốc.
Ở Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của Trung Quốc hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông đánh xuống và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên nhằm hợp điểm ở thị xã Cao Bằng. Cả hai cánh quân đều bị bộ đội địa phương và dân quân Cao Bằng đánh chặn. Cánh quân tây bắc dựa vào sức đột phá của xe tăng bị chặn tại Hòa An. Cánh quân đông bắc cũng bị đánh quyết liệt ở Thạch An và Quy Thuận, bị chặn đứng trên đường số 4. Mũi đánh vào Trà Lĩnh, Phục Hòa gồm 2 sư đoàn nhằm chiếm đèo Mã Phục, Khâu Chia cũng bị lực lượng vũ trang địa phương phản kích xé tan đội hình, bỏ chạy về bên kia biên giới. Trên trận địa phòng ngự tại đồi Khâu Chia, các lực lượng của Việt Nam đã chặn đứng một sư đoàn Trung Quốc trong 12 ngày, diệt hơn 4.000 lính. Ngày 12/3, quân Trung Quốc tháo chạy.
Trên tuyến Hoàng Liên Sơn, mờ sáng 17/2, các sư đoàn tuyến 1 của hai quân đoàn Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới Hoàng Liên Sơn từ phía tây bắc đến đông bắc thị xã Lào Cai. Cùng với việc đánh nhiều mũi vào các huyện Bát Xát, Mường Khương, bắn pháo dữ dội vào thị xã, quân Trung Quốc đồng thời bắc cầu qua sông Nậm Thi, cho xe tăng và bộ binh tiến vào thị xã Lào Cai và khu vực Bản Phiệt. Dân quân, tự vệ thị xã cùng các lực lượng vũ trang ở đây đánh trả quyết liệt. Sau 7 ngày, hai quân đoàn Trung Quốc không qua nổi trận địa đánh chặn, phục kích của quân và dân Hoàng Liên Sơn.
Trên các hướng Lai Châu, Hà Tuyên, cùng một lúc quân Trung Quốc chia các hướng đánh vào nhiều điểm. Hai sư đoàn Trung Quốc tiến công theo đường 10 vào Nậm Cúm, Phong Thổ (Lai Châu) và đụng độ với lực lượng vũ trang địa phương. Qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ. Ở Hà Tuyên, một sư đoàn Trung Quốc tấn công vào các đồn chốt biên phòng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của công an vũ trang, dân quân, bộ đội các huyện Đồng Văn, Thanh Thủy, Mèo Vạc và đồng bào các dân tộc. Hơn 1.000 lính Trung Quốc thiệt mạng.
Tại Quảng Ninh, Trung Quốc dùng hai sư đoàn bộ binh tiến công vào Pò Hèn, Móng Cái, Cao Ba Lanh, huyện Bình Liêu. Trong hai ngày 19 và 20/2, hai trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui, tháo chạy sát về biên giới.
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố "hoàn thành mục tiêu chiến tranh" và rút quân. Các nhà quan sát lúc đó cho rằng rút lui là hành động rất khó, có thể gây cho Trung Quốc nhiều tổn thất nếu bị quân tinh nhuệ Việt Nam phản công. Song, thể hiện thiện chí hòa bình của mình, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân mà không truy kích. 18/3, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân.
Trải qua 30 ngày chiến đấu ác liệt, các lực lượng vũ trang tại chỗ và đồng bào dân tộc 6 tỉnh biên giới Việt Nam đã dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, lấy ít địch nhiều đánh bại "chiến thuật biển người, thọc sâu phá hoại" của quân Trung Quốc. Theo số liệu công bố, trong hành động quân sự mưu toan phá hoại, 62.500 lính Trung Quốc (hơn 1/10 tổng số được huy động) bị hạ, 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn bị tiêu diệt, thiệt hại; 550 xe quân sự trong đó có 220 xe tăng, xe bọc thép (hơn một nửa số tham chiến) bị bắn cháy, 115 đại bác và súng cối hạng nặng bị phá hủy…Giới phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc đã học được bài học quân sự đắt giá của chính mình.
Tuy nhiên, cuộc xâm chiếm của Trung Quốc cũng gây ra những tổn thất nặng nề cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, hàng chục nghìn người thiệt mạng trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ; 400.000 gia súc bị giết và bị cướp; hàng chục nghìn ha hoa màu bị tàn phá. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài sản.
Tuy vậy, từ 18/3/1979 đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã không rút hết quân như tuyên bố. Suốt gần 10 năm đó, chiến sự vẫn tiếp diễn, cao điểm nhất là năm 1984-1985. Việt Nam vì thế buộc phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự lớn dọc biên giới. Tình trạng chiến tranh khiến kinh tế Việt Nam thiệt hại nặng nề.
Câu hỏi vì sao không quân, hải quân không tham chiến? 
Trước 1975, không quân ta chỉ có lực lượng khá mỏng, chủ yếu là máy bay tiêm kích, gồm có 4 trung đoàn, trang bị các loại máy bay chiến đấu MiG-17, MiG-19 và MiG-21 của Liên Xô trang bị. Nhưng sau đó, chúng ta đã tiếp quản và khai thác sử dụng 877 máy bay chiến đấu các loại của chế độ cũ, gồm rất nhiều chủng loại: tiêm kích, cường kích, trực thăng, trinh sát, vận tải …
Thêm 4 trung đoàn không quân nữa được thành lập, trang bị các máy bay tiêm kích hạng nhẹ F-5, cường kích A-37, máy bay vận tải C-47, C-119 và C-130, máy bay trinh sát L-19, U-17, trực thăng UH-1, CH-47.
Thực lực không quân Trung Quốc lúc đó được xếp lớn mạnh hàng đầu thế giới về số lượng nhưng không hiện đại. Cùng với đó, sân bay quân sự phía nam để có thể huy động cho chiến tranh không nhiều. Trong sự so sánh, trường hợp có không chiến với kẻ thù trực tiếp lúc đó là Trung Quốc, thì các phi công Việt Nam dạn dày kinh nghiệm, với các máy bay tiêm kích MiG-21PF, MiG-21PFM cũng thừa sức “làm cỏ” các máy bay J-5, J-6, J-7 của đối phương.
Sau này, trong chiến dịch chủ quyền CQ-88, trong bối cảnh lực lượng hải quân ta thua kém quá nhiều so với Trung Quốc, 7 máy bay Su-22 đã xuất kích, yểm trợ cho các tàu hải quân đổ bộ công binh, giành lại đảo Len Đao ở quần đảo Trường Sa.
Về Hải quân, thực lực của Việt Nam so với Trung Quốc là vô cùng nhỏ bé. Tuy nhiên, khi nhận được các thông tin đầu tiên về ý định tấn công Việt Nam của Trung Quốc, Hải quân Liên Xô đã điều các tàu tuần dương và tàu khu trục tới Biển Đông. Ngay sau khi cuộc tấn công xảy ra, ngoài khơi đã tập trung 13 tàu của Liên Xô. Đến đầu tháng Ba, quân số tàu chiến Liên Xô trên Biển Đông lên tới 30 chiếc. 
Sự hiện diện của tàu chiến Liên Xô làm 300 tàu Hải quân Trung Quốc đã không có cơ hội để tham gia vào cuộc tấn công Việt Nam. Cùng với đó, thuỷ thủ Liên Xô đã đối phó với các tàu chiến Mỹ. Ngày 25/2/1979, các tàu Mỹ đã đỗ thành chuỗi ngoài khơi bờ biển Việt Nam, mà theo người Mỹ lúc bấy giờ gọi là "để kiểm soát tình hình". 
Để ngăn tàu Mỹ không tới được khu vực hoạt động chiến sự, tàu ngầm Liên Xô đã chặn các ngả đường tiếp cận của tàu Mỹ. Tàu Liên Xô đã tạo ra một rào cản trên biển mà tàu Mỹ đã không dám vượt qua và đến ngày 6/3 thì rút hết khỏi Biển Đông.
Năm 1992, Việt Nam, Trung Quốc bình thường hóa quan hệ. Cuộc chiến biên giới phía bắc, vì nhiều lý do, trong suốt một thời gian dài đã ít được công bố. Song, với người Việt chúng ta không bao giờ quên nó.

No comments:

Post a Comment