Sơ đồ chiến sự
Cuộc
chiến tranh xâm lược của Trung Quốc ở biên giới phía bắc của Việt Nam
đến nay đã 37 năm. Sau bình thường hóa quan hệ, do nhiều lý do, hai nhà
nước Việt Nam - Trung Quốc đã không công bố những thông tin cụ thể về
nó. Những kẻ cơ hội chính trị đã lợi dụng khoét sâu vào vấn đề này với
âm mưu kích động dân chúng. Sự thật là thế nào?
Những căn nguyên của vấn đề
Quan
hệ Việt - Trung bắt đầu rạn nứt năm 1968 khi Việt Nam đồng thời giao
hảo với cả Liên Xô và Trung Quốc, nhận viện trợ của cả hai nước để chống
Mỹ trong bối cảnh mối quan hệ hai nước này xuất hiện nhiều xung đột
căng thẳng. Trung Quốc đã đề nghị Việt Nam tham gia liên minh chống Liên
Xô không nhận viện trợ của Liên Xô và họ sẽ đảm bảo thay. Song, Việt
Nam đã không đồng ý.
Năm
1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới thăm Bắc Kinh và đạt được thỏa thuận
riêng với Trung Quốc. Ngay sau đó, Mỹ đã mở chiến dịch hủy diệt Hà Nội
bằng B52.
Tháng
5/1975, Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu, thọc
sâu vào lãnh thổ Việt Nam, tàn sát hàng nghìn dân thường. Đứng sau viện
trợ cho Khmer Đỏ về vũ khí, khí tài cũng như cố vấn quân sự là Trung
Quốc. Tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa cũng nổi lên rõ hơn khi Việt Nam
tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo.
Ngày
3/11/1978, Việt - Xô ký hiệp ước hữu nghị 25 năm - chính thức xác nhận
Việt Nam đứng về phía Liên Xô. Gần 2 tháng sau, quân đội Việt Nam tổng
phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền
Khmer Đỏ. Trung Quốc quyết định dừng viện trợ, rút chuyên gia khỏi Việt
Nam.
Từ
đầu năm 1978 trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh mở chiến dịch
tố cáo Việt Nam “bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa kiều”, gọi người
Việt-gốc-Hoa là “nạn kiều”. “Bị tác động bởi chiến dịch cưỡng ép di cư
của phía Trung Quốc người Hoa đã kéo nhau hàng loạt đi Trung Quốc một
cách bất hợp pháp”. Họ ùn ùn kéo ra cửa khẩu Hữu Nghị Lạng Sơn gây nên
cảnh hỗn loạn.
Bộ
Ngoại giao Việt Nam đã ra tuyên bố: “Đảng và Chính phủ Việt Nam trước
sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có một số
bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn xấu tác động”. Đồng
thời, gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu chấm dứt tuyên
truyền kích động; đại diện hai nước gặp nhau để cùng nhau bàn bạc, giải
quyết những bất đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam. Trung Quốc đã bác
bỏ đề nghị và đã tự quyết định đưa tàu thủy sang thành phố Hải Phòng và
thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978 để đón người Hoa về nước. Tuy
nhiên họ chỉ đón 2400 người để tạo cơn lũ người Hoa kéo đi rồi dừng hẳn.
Trước
đó, thông qua bàn tay của Pôn Pốt trong chiến dịch bài xích người Việt ở
Căm Pu Chia chúng đã đẩy khoảng 30.000 người Hoa chạy sang Việt Nam
lánh nạn ở các tỉnh miền Tây.
Chính
khách Việt Nam đã phải thốt lên rằng: "nếu họ thực tâm muốn chăm lo cho
Hoa kiều, tại sao họ lại không lên tiếng đối với việc Hoa kiều bị bọn
cầm quyền phản động Campuchia xua đuổi tàn ác, ngược đãi… Đáng lý những
Hoa kiều họ cần phải rước trước hết là người Hoa đang sống đau khổ, tủi
nhục dưới chế độ tàn bạo của bọn cầm quyền phản động Campuchia. Thái độ
trái ngược của phía Trung Quốc không khỏi làm cho mọi người nghi ngờ
việc họ tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực hiện một ý
đồ khác. Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn cho Việt Nam mà thôi”. Mục
đích của Trung Quốc là để tạo điều kiện cho Khơmer đỏ thực hiện âm mưu
đánh chiếm miền Tây Việt Nam.
Tháng
1/1979, Việt Nam mở chiến dịch Tây Nam lật đổ chế độ diệt chủng Khmer
đỏ thân Trung Quốc tại Campuchia, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học".
Chiến tranh xâm lược 30 ngày chống Việt Nam
Rạng
sáng 17/ 2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên giới, đồng
loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai
Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200 km.
Dù từng tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới.
Thời
điểm Trung Quốc tấn công, tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các
tỉnh biên giới phía Bắc bao gồm cả quân chính quy và dân quân địa
phương chỉ có khoảng 50.000 quân. Trong khi đó, Trung Quốc sử dụng 9
quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn xe tăng, 4
sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo
hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn. Ước tính có đến 600.000
quân, gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.
Hướng
mặt trận Lạng Sơn (chỉ cách Hà Nội 100km), các cánh quân lớn của Trung
Quốc chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chất (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn
(Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng
(Lạng Sơn). Dù bị bất ngờ song chỉ với lực lượng dân quân địa phương,
Việt Nam đã quả cảm chặn đánh, ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày. Sau
10 ngày chiến đấu không đạt được mục tiêu, ngày 27/2, Trung Quốc tung
thêm một quân đoàn nhằm vào thị xã Lạng Sơn dùng chiến thuật biển người
hòng xâm chiếm các mục tiêu quan trọng. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt
giữa 2 quân đoàn tăng cường của Trung Quốc và lực lượng vũ trang địa
phương Việt Nam. Ở điểm cao 417, đoàn An Lão đã đánh bật hàng chục đợt
tấn công, loại khỏi vòng chiến đấu trung đoàn 850 của Trung Quốc. Đặc
biệt, ở khu vực cầu Khánh Khê trên đường 1B, chiến sĩ đoàn Tây Sơn đã
kiên cường chặn đứng một sư đoàn quân và một tiểu đoàn xe tăng Trung
Quốc.
Ở
Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của Trung Quốc hình thành hai cánh
quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông đánh xuống và từ phía
đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên nhằm hợp điểm ở thị xã Cao
Bằng. Cả hai cánh quân đều bị bộ đội địa phương và dân quân Cao Bằng
đánh chặn. Cánh quân tây bắc dựa vào sức đột phá của xe tăng bị chặn tại
Hòa An. Cánh quân đông bắc cũng bị đánh quyết liệt ở Thạch An và Quy
Thuận, bị chặn đứng trên đường số 4. Mũi đánh vào Trà Lĩnh, Phục Hòa gồm
2 sư đoàn nhằm chiếm đèo Mã Phục, Khâu Chia cũng bị lực lượng vũ trang
địa phương phản kích xé tan đội hình, bỏ chạy về bên kia biên giới. Trên
trận địa phòng ngự tại đồi Khâu Chia, các lực lượng của Việt Nam đã
chặn đứng một sư đoàn Trung Quốc trong 12 ngày, diệt hơn 4.000 lính.
Ngày 12/3, quân Trung Quốc tháo chạy.
Trên
tuyến Hoàng Liên Sơn, mờ sáng 17/2, các sư đoàn tuyến 1 của hai quân
đoàn Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới Hoàng Liên Sơn từ phía tây
bắc đến đông bắc thị xã Lào Cai. Cùng với việc đánh nhiều mũi vào các
huyện Bát Xát, Mường Khương, bắn pháo dữ dội vào thị xã, quân Trung Quốc
đồng thời bắc cầu qua sông Nậm Thi, cho xe tăng và bộ binh tiến vào thị
xã Lào Cai và khu vực Bản Phiệt. Dân quân, tự vệ thị xã cùng các lực
lượng vũ trang ở đây đánh trả quyết liệt. Sau 7 ngày, hai quân đoàn
Trung Quốc không qua nổi trận địa đánh chặn, phục kích của quân và dân
Hoàng Liên Sơn.
Trên
các hướng Lai Châu, Hà Tuyên, cùng một lúc quân Trung Quốc chia các
hướng đánh vào nhiều điểm. Hai sư đoàn Trung Quốc tiến công theo đường
10 vào Nậm Cúm, Phong Thổ (Lai Châu) và đụng độ với lực lượng vũ trang
địa phương. Qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ. Ở
Hà Tuyên, một sư đoàn Trung Quốc tấn công vào các đồn chốt biên phòng đã
vấp phải sự kháng cự quyết liệt của công an vũ trang, dân quân, bộ đội
các huyện Đồng Văn, Thanh Thủy, Mèo Vạc và đồng bào các dân tộc. Hơn
1.000 lính Trung Quốc thiệt mạng.
Tại
Quảng Ninh, Trung Quốc dùng hai sư đoàn bộ binh tiến công vào Pò Hèn,
Móng Cái, Cao Ba Lanh, huyện Bình Liêu. Trong hai ngày 19 và 20/2, hai
trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui, tháo chạy sát về biên giới.
Ngày
5/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động viên toàn quốc.
Cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố "hoàn thành mục tiêu chiến tranh" và rút
quân. Các nhà quan sát lúc đó cho rằng rút lui là hành động rất khó, có
thể gây cho Trung Quốc nhiều tổn thất nếu bị quân tinh nhuệ Việt Nam
phản công. Song, thể hiện thiện chí hòa bình của mình, Việt Nam tuyên bố
cho phép Trung Quốc rút quân mà không truy kích. 18/3, Trung Quốc hoàn
thành việc rút quân.
Trải
qua 30 ngày chiến đấu ác liệt, các lực lượng vũ trang tại chỗ và đồng
bào dân tộc 6 tỉnh biên giới Việt Nam đã dựa vào thế trận chiến tranh
nhân dân, lấy ít địch nhiều đánh bại "chiến thuật biển người, thọc sâu
phá hoại" của quân Trung Quốc. Theo số liệu công bố, trong hành động
quân sự mưu toan phá hoại, 62.500 lính Trung Quốc (hơn 1/10 tổng số được
huy động) bị hạ, 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn bị tiêu diệt, thiệt hại;
550 xe quân sự trong đó có 220 xe tăng, xe bọc thép (hơn một nửa số tham
chiến) bị bắn cháy, 115 đại bác và súng cối hạng nặng bị phá hủy…Giới
phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc đã
học được bài học quân sự đắt giá của chính mình.
Tuy
nhiên, cuộc xâm chiếm của Trung Quốc cũng gây ra những tổn thất nặng nề
cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy
diệt hoàn toàn, hàng chục nghìn người thiệt mạng trong đó có nhiều phụ
nữ và trẻ nhỏ; 400.000 gia súc bị giết và bị cướp; hàng chục nghìn ha
hoa màu bị tàn phá. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên
giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài sản.
Tuy
vậy, từ 18/3/1979 đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã không rút hết quân
như tuyên bố. Suốt gần 10 năm đó, chiến sự vẫn tiếp diễn, cao điểm nhất
là năm 1984-1985. Việt Nam vì thế buộc phải thường xuyên duy trì một lực
lượng quân sự lớn dọc biên giới. Tình trạng chiến tranh khiến kinh tế
Việt Nam thiệt hại nặng nề.
Câu hỏi vì sao không quân, hải quân không tham chiến?
Trước
1975, không quân ta chỉ có lực lượng khá mỏng, chủ yếu là máy bay tiêm
kích, gồm có 4 trung đoàn, trang bị các loại máy bay chiến đấu MiG-17,
MiG-19 và MiG-21 của Liên Xô trang bị. Nhưng sau đó, chúng ta đã tiếp
quản và khai thác sử dụng 877 máy bay chiến đấu các loại của chế độ cũ,
gồm rất nhiều chủng loại: tiêm kích, cường kích, trực thăng, trinh sát,
vận tải …
Thêm
4 trung đoàn không quân nữa được thành lập, trang bị các máy bay tiêm
kích hạng nhẹ F-5, cường kích A-37, máy bay vận tải C-47, C-119 và
C-130, máy bay trinh sát L-19, U-17, trực thăng UH-1, CH-47.
Thực
lực không quân Trung Quốc lúc đó được xếp lớn mạnh hàng đầu thế giới về
số lượng nhưng không hiện đại. Cùng với đó, sân bay quân sự phía nam để
có thể huy động cho chiến tranh không nhiều. Trong sự so sánh, trường
hợp có không chiến với kẻ thù trực tiếp lúc đó là Trung Quốc, thì các
phi công Việt Nam dạn dày kinh nghiệm, với các máy bay tiêm kích
MiG-21PF, MiG-21PFM cũng thừa sức “làm cỏ” các máy bay J-5, J-6, J-7 của
đối phương.
Sau
này, trong chiến dịch chủ quyền CQ-88, trong bối cảnh lực lượng hải
quân ta thua kém quá nhiều so với Trung Quốc, 7 máy bay Su-22 đã xuất
kích, yểm trợ cho các tàu hải quân đổ bộ công binh, giành lại đảo Len
Đao ở quần đảo Trường Sa.
Về
Hải quân, thực lực của Việt Nam so với Trung Quốc là vô cùng nhỏ bé.
Tuy nhiên, khi nhận được các thông tin đầu tiên về ý định tấn công Việt
Nam của Trung Quốc, Hải quân Liên Xô đã điều các tàu tuần dương và tàu
khu trục tới Biển Đông. Ngay sau khi cuộc tấn công xảy ra, ngoài khơi đã
tập trung 13 tàu của Liên Xô. Đến đầu tháng Ba, quân số tàu chiến Liên
Xô trên Biển Đông lên tới 30 chiếc.
Sự
hiện diện của tàu chiến Liên Xô làm 300 tàu Hải quân Trung Quốc đã
không có cơ hội để tham gia vào cuộc tấn công Việt Nam. Cùng với đó,
thuỷ thủ Liên Xô đã đối phó với các tàu chiến Mỹ. Ngày 25/2/1979, các
tàu Mỹ đã đỗ thành chuỗi ngoài khơi bờ biển Việt Nam, mà theo người Mỹ
lúc bấy giờ gọi là "để kiểm soát tình hình".
Để
ngăn tàu Mỹ không tới được khu vực hoạt động chiến sự, tàu ngầm Liên Xô
đã chặn các ngả đường tiếp cận của tàu Mỹ. Tàu Liên Xô đã tạo ra một
rào cản trên biển mà tàu Mỹ đã không dám vượt qua và đến ngày 6/3 thì
rút hết khỏi Biển Đông.
Năm
1992, Việt Nam, Trung Quốc bình thường hóa quan hệ. Cuộc chiến biên
giới phía bắc, vì nhiều lý do, trong suốt một thời gian dài đã ít được
công bố. Song, với người Việt chúng ta không bao giờ quên nó.
No comments:
Post a Comment